Thúc đẩy vai trò Ngân hàng ASEAN trong xây dựng những nền kinh tế bền vững và có khả năng hồi phục cao
Ngân hàng Xanh và Phát triển bền vững - Ngày đăng : 17:06, 21/08/2019
Kết luận này được đưa ra sau khi WWF đánh giá tính hiệu quả của việc tích hợp các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị (MT, XH & QT) trong 6 lĩnh vực hoạt động quan trọng của ngân hàng (mục đích, chính sách, quy trình, con người, sản phẩm, danh mục đầu tư). Trong số 35 ngân hàng được đánh giá, chỉ có 4 ngân hàng của Singapore và Thái Lan hoàn thành được ít nhất hơn một nửa trong số 70 tiêu chí và 51% các ngân hàng hoàn thành ít hơn một phần tư tiêu chí. Tuy nhiên, báo cáo cũng cho thấy có một sự tiến triển tốt khi 74% các ngân hàng tiến bộ hơn so với năm ngoái. Đặc biệt, các ngân hàng DBS, OCBC và UOB đã thể hiện vai trò dẫn đầu khi ngừng đầu tư cho các dự án năng lượng than và thực hiện cam kết không phá rừng.
Tiến triển không đồng bộ làm suy yếu khả năng ứng phó của khu vực đối với các mối đe doạ sắp tới bởi các hoạt động phát triển không bền vững vẫn tiếp tục được đầu tư.
Bà Jeanne Stampe, Giám đốc Chương trình Tài chính Bền vững châu Á của WWF phát biểu: “Các nền kinh tế của ASEAN có sự phụ thuộc lẫn nhau, điều này làm gia tăng tác động của biến đổi khí hậu và sự phá huỷ môi trường. Để đảm bảo khối kinh doanh có khả năng tự phục hồi cao và người dân ASEAN có một tương lai an toàn, các ngân hàng trong khu vực cần phải quản lý được các cơ hội và rủi ro về khí hậu và các yếu tố môi trường khác trong danh mục đầu tư của họ”.
Các ngân hàng ASEAN đang đánh mất nguồn lợi nhuận của mình khi không tích cực hỗ trợ quá trình chuyển đổi khẩn cấp sang một nền kinh tế bền vững và phát thải các-bon thấp. Một nghiên cứu của DBS và UNEPFI ước tính nhu cầu đối với phát triển xanh là vào khoảng 3 nghìn tỷ USD từ năm 2016 tới 2030 trong các lĩnh vực như cơ sở hạ tầng, năng lượng tái tạo, năng lượng hiệu quả, thực phẩm, nông nghiệp và sử dụng đất. Khoảng 51% ngân hàng có các sản phẩm tài chính xanh nhưng chỉ chủ yếu tập trung vào ngành năng lượng bền vững, do đó tạo ra một khoảng trống tài chính lớn trong cách lĩnh vực khác.
Các ngân hàng ASEAN phản ứng chậm
Mặc dù các cơ quan quản lý ngày càng yêu cầu các ngân hàng đánh giá khả năng phục hồi của các danh mục vay đối với rủi ro khí hậu và công bố kết quả, chỉ có khoảng 9% các ngân hàng có chiến lược quản lý các rủi ro liên quan tới khí hậu hoặc thực hiện các đánh giá về rủi ro khí hậu. Các ngân hàng trung ương của Malaysia, Singapore và Thái Lan đã tham gia Mạng lưới Xanh hoá Hệ thống Tài chính (NGFS). Mạng lưới này khuyến nghị các ngân hàng và giám sát viên nên tích hợp các rủi ro về khí hậu trong chương trình giám sát tài chính bền vững. Đến cuối năm nay, bảy hiệp hội ngân hàng hoặc các cơ quan quản lý trong khối ASEAN sẽ công bố những hướng dẫn về tài chính bền vững.
Thêm vào đó, 374 tổ chức tài chính với 118 nghìn tỷ USD tài sản đã phê chuẩn thành lập Tổ công tác Đặc biệt về Công bố Thông tin Tài chính Liên quan tới Khí hậu (TCFD) - một sáng kiến nhằm xây dựng các khuyến nghị cho các tổ chức tài chính về những rủi ro khí hậu có thể gây ra. Các ngân hàng đang tạo một nền tảng tốt trong việc quản lý các vấn đề MT, XH &QT khi có khoảng 57% các ngân hàng có giám sát cấp cao về các vấn đề MT, XH &QT và gần một nửa trong số đó có trách nhiệm quản lý các rủi ro và cơ hội liên quan tới khí hậu. Để quản lý hiệu quả các rủi ro về MT, XH & QT, các ngân hàng phải tạo ra những khung chính sách mạnh mẽ với các tiêu chuẩn dựa trên khoa học. Ví dụ, hiện chỉ có 14% các ngân hàng yêu cầu khách hàng của mình cam kết tuân thủ các tiêu chuẩn bền vững quốc tế trong các chính sách ngành của họ.
Các nhà đầu tư cũng ngày càng sâu sát với các ngân hàng về cách họ quản lý các rủi ro liên quan tới môi trường và khí hậu. Alistar Thompson, Giám đốc Cơ quan Đầu tư Nhà nước (Singapore) cho biết “Báo cáo Đánh giá Tài chính Bền vững của WWF là một công cụ giá trị đối với khối ASEAN chúng tôi. Nó cho phép chúng tôi theo dõi được tiến độ thực hiện được, hay không, và những lĩnh vực trong đó các nhà đầu tư, như chúng tôi, có thể tác động để cải thiện hơn. Chúng tôi đã sử dụng công cụ này khi tham gia các lĩnh vực như Nhiệt than và Dầu cọ”.
Ngành tài chính ASEAN dễ bị tác động bởi rủi ro về khí hậu và suy thoái môi trường
Các nền kinh tế của ASEAN phụ thuộc rất lớn vào nhiên liệu hoá thạch – nguồn nguyên liệu góp phần gây ra biến đổi khí hậu. Khoảng 91% ngân hàng ASEAN tiếp tục cho vay các nhà máy điện than, do vậy các ngân hàng này ngày càng chịu nhiều rủi ro chuyển đổi liên quan tới khí hậu như thuế các-bon và những cải thiện đáng kể về công nghệ năng lượng tái tạo.
Tuy nhiên than lại không phải là vấn đề duy nhất. Mất rừng trên diện rộng khiến biến đổi khí hậu và mất đa dạng sinh học thêm trầm trọng. Đa dạng sinh học, đất, sông ngòi, rừng và đại dương là những nguồn vốn tự nhiên cung cấp các dịch vụ hệ sinh thái để duy trì sự sống điều tiết khí hậu và không khí cũng như lương thực, các nguyên liệu thô và nguồn nước ngọt. Báo cáo đặc biệt gần đây của IPCC (Uỷ ban Liên Chính phủ về Biến đổi Khí hậu) về sử dụng đất và khí hậu đã nhấn mạnh rằng quản lý đất bền vững cùng với việc giảm khí phát thải các-bon của ngành năng lượng sẽ là những yếu tố quan trọng để đạt được mục tiêu của Thoả thuận Paris. SUSBA cho thấy chỉ khoảng 9% các ngân hàng có chính sách không phá rừng, mặc dù ASEAN là ngôi nhà của những điểm nóng phá rừng lớn nhất thế giới như Tiểu vùng sông Mekong Mở rộng, Sumatra và Borneo.
Bất chấp biến đổi khí hậu khiến khu vực Đông Nam Á hứng chịu liên tiếp các thảm họa liên quan đến nước, các ngân hàng ASEAN chưa quản lý đầy đủ các rủi ro liên quan đến nước. Chỉ 17% ngân hàng nhìn nhận rủi ro liên quan đến nước nhưng không ngân hàng nào yêu cầu khách hàng đánh giá rủi ro liên quan đến nước. Ví dụ, Thái Lan phải đối mặt với thiệt hại kinh tế 42 tỷ đô từ trận lụt năm 2011 và điều này có thể trở nên tồi tệ hơn với 40% diện tích của Bangkok có nguy cơ bị ngập lụt vào năm 2030. Tài nguyên nước Malaysia dự kiến sẽ cạn kiệt tới 25% vào năm 2030.
Ngân hàng Việt Nam tiến bộ chưa đủ nhanh so với đa số các ngân hàng trong khối ASEAN. BIDV là ngân hàng được đánh giá là tiến triển tốt nhất khi đáp ứng được 24% các tiêu chí, trong khi đó các ngân hàng còn lại chỉ đạt được khoảng 11% các tiêu chí.
Các quy định tài chính bền vững của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) đã được ban hành vào năm 2015. Ngoài ra, SBV đã ban hành sổ tay bảng kiểm các yếu tố môi trường và xã hội cụ thể cho từng ngành nhằm hướng dẫn cụ thể cho các ngân hàng quản lý các rủi ro MT&XH trong các lĩnh vực rủi ro cao. Với sự hỗ trợ của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, SBV đã thực hiện nhiều chương trình đào tạo tài chính bền vững cho các ngân hàng về tích hợp các yếu tố MT, XH & QT. Với những nguồn lực sẵn có cùng với sự hỗ trợ của các bên liên quan như WWF, các ngân hàng Việt Nam có thể đạt được nhiều tiến triển trong lồng ghép MT, XH & QT trong hoạt động của mình.
Bà Jeanne Stampe tiếp tục chia sẻ: “Tài nguyên thiên nhiên là nguồn vốn đảm bảo sự thịnh vượng nền kinh tế và xã hội của chúng ta. Để đảm bảo sự phát triển của các nền kinh tế ASEAN, chúng ta phải bảo vệ và đầu tư vào các nguồn tài nguyên này. Sáng kiến Tài chính Bền vững châu Á có thể hỗ trợ các ngân hàng đạt được mục tiêu này thông qua các công cụ dựa trên nền tảng khoa học, các nghiên cứu và các chuẩn mực”.