Kinh nghiệm cho vay ngang hàng ở một số quốc gia trên thế giới và bài học cho Việt Nam
Nhìn ra thế giới - Ngày đăng : 08:30, 20/10/2019
Cho vay ngang hàng (Peer-to-peer lending, viết tắt là P2P Lending) là hình thức cho vay được xây dựng trên nền tảng ứng dụng công nghệ số kết nối trực tiếp giữa người đi vay và người cho vay mà không cần thông qua trung gian tài chính. Mô hình này đã phát triển nhanh ở nhiều quốc gia trên thế giới trong vòng một thập niên trở lại đây, tạo ra một kênh cung ứng vốn mới góp phần thúc đẩy phát triển nền tài chính toàn diện, giúp người đi vay tiếp cận vốn dễ dàng hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó thì mô hình này cũng tiềm ẩn không ít rủi ro cho các bên tham gia, có thể ảnh hưởng đến kinh tế xã hội, cũng như an ninh trật tự của đất nước.
1. Kinh nghiệm cho vay ngang hàng ở một số nước
1.1. Ở Anh
Nước Anh được cho là một trong những quốc gia khởi đầu mô hình P2P Lending. Để quản lý P2P Lending, vào năm 2014, Cơ quan Kiểm soát Tài chính (Financial Conduct Authority – FCA) của nước Anh đã ban hành Bộ luật quản lý hình thức P2P Lending để loại hình cho vay này phù hợp với thực tiễn, FCA đã luôn theo dõi tình hình thực tiễn P2P Lending trên thị trường, từ đó có những điều chỉnh phù hợp. Chẳng hạn như vào tháng 6/2019, FCA có thay đổi về bộ quy tắc đối với nền tảng P2P Lending đã được thiết lập, thay đổi này có hiệu lực từ ngày 9/12/2019, một trong những thay đổi quan trọng của bộ quy tắc này là những yếu tố bảo vệ nhà đầu tư, khi các nhà đầu tư chưa được tư vấn đầy đủ sẽ không thể sử dụng hơn 10% tài sản đầu tư của mình để đầu tư P2P Lending. Cũng từ ngày 9/12/2019, các nhà đầu tư phải được đánh giá có kiến thức và kinh nghiệm trước khi được phép tham gia đầu tư vào P2P Lending, hơn thế nữa các nhà đầu tư là những nhà đầu tư chuyên nghiệp cũng sẽ bị hạn chế tham gia mô hình này. Ngoài ra, bộ quy tắc cũng tập trung vào việc đánh giá, quản lý rủi ro, phương pháp định giá của doanh nghiệp, cũng như nền tảng có mô hình kinh doanh phức tạp, đặc biệt hoạt động quảng bá cho mô hình P2P Lending cũng sẽ bị kiểm soát chặt chẽ hơn; nhằm bảo vệ các nhà đầu tư, doanh nghiệp tham gia P2P Lending được yêu cầu bắt buộc phải cung cấp cho khách hàng một lượng thông tin nhất định về nhà đầu tư khi cung cấp sản phẩm và doanh nghiệp tham gia P2P Lending cũng phải có kế hoạch dự phòng khi rủi ro phá sản có thể xảy ra. [2], [5]
1.2. Ở Mỹ
Tại Mỹ, mô hình P2P Lending đã xuất hiện khá lâu, vào khoảng đầu năm 2006, Prosper được cho là một trong những công ty tiên phong tham gia thị trường này. Trước năm 2008, hầu như các công ty P2P Lending ít bị quản lý bởi các cơ quan có thẩm quyền của Mỹ. Tuy nhiên, vào năm 2008, Ủy ban Chứng khoán và sàn Giao dịch Hoa Kỳ (SEC) đã tham gia quản lý mô hình này, theo đó các công ty P2P Lending phải tuân thủ Đạo luật Chứng khoán và muốn hoạt động phải được cấp phép bởi SEC để được hoạt động và tiếp nhận nhà đầu tư, sau khi đăng ký hoạt động, phải có trách nhiệm báo cáo tình hình hoạt động. Một trong những quy định của SEC để kiểm soát công ty P2P Lending là các khoản vay cần phải có sự tham gia của ngân hàng, người cho vay sẽ được cấp chứng chỉ đảm bảo nợ từ công ty P2P Lending, chính vì vậy, quyền lợi của người đi vay được đảm bảo tốt hơn so với việc lệ thuộc vào người đi vay để đảm bảo khoản vay. Về giới hạn vốn huy động, công ty P2P Lending chỉ được huy động tối đa 1,07 triệu USD trong mỗi năm từ một nhà đầu tư, trừ trường hợp đặc biệt phải được cơ quan có thẩm quyền cấp phép; giới hạn đầu tư của một cá nhân được tính bằng tổng các khoản đầu tư được thực hiện bởi nhà đầu tư đó trong vòng 12 tháng. [2], [3]
1.3. Ở Trung Quốc
Trung Quốc là một trong những quốc gia có mô hình P2P Lending phát triển vào loại nhanh nhất thế giới, theo tính toán của các cơ quan chức năng thì tổng số dư nợ P2P Lending ở Trung Quốc ước đạt khoảng 200 tỷ USD. Ở Trung Quốc, mô hình này chủ yếu nhằm phục vụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đây là đối tượng khách hàng thường bị các ngân hàng quốc doanh từ chối cho vay. Những năm trước đây, mô hình này chưa được kiểm soát nhiều cho nên còn khá nhiều vấn đề tồn tại. Một số báo cáo cho rằng, có hơn 1/3 dư nợ P2P Lending có vấn đề, trong đó phần lớn là có dấu hiệu gian lận, vì thế có nhiều công ty P2P Lending ở nước này đã đổ vỡ. Thấy được những nhược điểm của mô hình này, từ năm 2015, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã ban hành nhiều quy định nghiêm ngặt hơn để thúc đẩy nền tài chính trực tuyến phát triển an toàn, lành mạnh và bền vững. Chẳng hạn như quy định giao trách nhiệm giám sát thị trường P2P Lending cho Ủy ban Điều tiết Ngân hàng Trung Quốc (CBRC) cùng với Cơ quản Quản lý Bảo hiểm PRC, hai cơ quan này đã sáp nhập để trở thành Ủy ban Điều tiết Ngân hàng và Bảo hiểm Trung Quốc. Năm 2016, CBRC ban hành bộ quy tắc toàn diện mang tên “Các biện pháp tạm thời về quản trị hoạt động kinh doanh của các đơn vị cho vay trực tuyến”, theo đó bộ quy tắc này quy định nghiêm ngặt hơn như cấm việc đặt lợi tức đảm bảo dành cho người cho vay, cũng như quy định giới hạn cho vay đối với cá nhân và doanh nghiệp, theo đó cá nhân được cho vay tối đa 1 triệu Nhân dân tệ và doanh nghiệp cho vay tối đa 5 triệu Nhân dân tệ; nghiêm cấm công ty P2P Lending phát hành chứng khoán cho người cho vay, quy định bắt buộc tiền của người đầu tư phải để trong tài khoản ngân hàng được giám sát. Một quy định khác là vào tháng 6/2018, chính quyền địa phương được giao nhiệm vụ đánh giá năng lực và đăng ký đối với các doanh nghiệp P2P Lending có đủ điều kiện theo quy định, đồng thời xây dựng các chính sách quản lý mô hình P2P Lending riêng phù hợp với từng khu vực.[2], [4]
1.4. Ở Singapore
Tại Singapore, cơ quan chịu trách nhiệm đảm bảo lợi thế cạnh tranh và năng động của ngành tài chính là Ngân hàng trung ương Singapore (Monetary Authority of Singapore – MAS), theo đó MAS đã đưa ra một loạt các yêu cầu đối với các bên tham gia mô hình tài chính ngang hàng. Theo quy định của Singapore, các công ty tham gia P2P Lending đều phải được kiểm định và cấp giấy phép dịch vụ thị trường vốn từ MAS mới được phép hoạt động; các công ty này không được tự quản lý tiền của nhà đầu tư mà phải gửi một đơn vị ký quỹ độc lập nhằm đề phòng trường hợp chính công ty cung cấp dịch vụ P2P Lending gặp rủi ro về tài chính. Số tiền đi vay cá nhân theo quy định tối đa là 100.000 USD, người đi vay phải viết giấy xác nhận nợ cho nhà đầu tư, đây là căn cứ pháp lý để xác định người đi vay phải trả nợ cho nhà đầu tư vào một ngày cụ thể trong tương lai; bên cạnh đó, các công ty P2P Lending phải đảm bảo rằng người đi vay phải nắm rõ quy định này. [2], [6]
1.5. Ở Malaysia
Năm 2016, Ủy ban Chứng khoán Quốc gia Malaysia (SC) ban hành các quy định và đưa Malaysia trở thành quốc gia ASEAN đầu tiên luật hóa mô hình tín dụng ngang hàng, theo quy định các công ty P2P Lending phải được SC chấp thuận mới được hoạt động, mô hình này chỉ được phép phục vụ đối tượng doanh nghiệp và không dành cho các cá nhân có mục đích tài chính cá nhân, nguyên nhân chính là do tỷ lệ nợ của các hộ gia đình tại Malaysia đang ở mức cao, lên đến 84,6% trên tổng thu nhập. Các công ty cung cấp nền tảng P2P phải có nghĩa vụ tuân thủ đạo luật Companies Act 1965 với số vốn thanh toán tối thiểu là 5 triệu ringgit, người điều hành của công ty phải chứng minh mình có năng lực và kiến thức phù hợp để vận hành doanh nghiệp; các công ty cũng phải xây dựng được một hệ thống chấm điểm rủi ro tín dụng minh bạch và hiệu quả, có tránh nhiệm thẩm định người đi vay và có kế hoạch theo dõi, bảo đảm người vay phải tuân thủ đúng các quy định của hợp đồng và số tiền gửi của nhà đầu tư và người đi vay phải được gửi tại tài khoản ủy thác của bên thứ 3 trước khi thực hiện bất kỳ giao dịch nào, lãi suất cho vay không vượt mức 18%/năm. Ở Malaysia, không quy định giới hạn số tiền mà doanh nghiệp có thể huy động qua hình thức P2P Lending, tuy nhiên doanh nghiệp chỉ có thể được giải ngân khi huy động được trên 80% số vốn họ mong muốn; về phía nhà đầu tư, SC khuyến cáo số tiền đầu tư nên ở mức tối đa 50.000 ringgit để hạn chế rủi ro. [1], [2], [3]
2. Thực trạng P2P Lending ở việt Nam
Việt Nam hiện nay chưa có hành lang pháp lý đối với P2P Lending. Các công ty hoạt động trong lĩnh vực này thường đăng ký là công ty tư vấn đầu tư, quan hệ cho vay vẫn được hiểu là quan hệ dân sự. Vài năm trở lại đây, với sự phát triển khá nhanh của các công ty công nghệ tài chính (Fintech), hiện có khoảng 40 công ty đang hoạt động trong lĩnh vực này, trong đó một số công ty đã được rất nhiều người biết đến như Lenbiz, Tima…, trong đó một số công ty P2P Lending đang hoạt động khá hiệu quả, đặc biệt là những những công ty hướng vào thị trường là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh những mặt tích cực, loại hình hoạt động này đã có khá nhiều vấn đề phức tạp như: chưa có khuôn khổ pháp lý về P2P Lending, quy định lãi suất cao phi thực tế nhằm lôi kéo người cho vay tham gia, quảng cáo thiếu minh bạch về mức lợi nhuận, không cung cấp thông tin hoặc những thông tin thiếu chính xác về những rủi ro mà các bên tham gia hoạt động cho vay này gặp phải; trường hợp nếu xảy ra tranh chấp người đi vay không trả tiền thì bên cho vay có thể mất trắng số tiền cho vay, khó truy đòi trách nhiệm từ các công ty cung ứng nền tảng P2P Lending. [1]
Ngân hàng Nhà nước cho biết đã xuất hiện những hoạt động biến tướng, vi phạm pháp luật về tín dụng, ngân hàng. Thực tế cho thấy, biến tướng dễ xảy ra ở một số các công ty nước ngoài có nguồn lực tài chính mạnh, để hạn chế những tiêu cực phát sinh, Ngân hàng Nhà nước đã có những cuộc hội thảo và đưa ra các khuyến cáo người dân nên cẩn trọng khi tham gia mô hình này, đây là việc làm hết sức cần thiết trong khi chưa được ban hành văn bản quản lý đối với loại hình hoạt động này. Bên cạnh đó, Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng cũng đưa ra khuyến cáo đối với người tiêu dùng cần cân nhắc cẩn trọng trước khi cung cấp các thông tin cá nhân để thực hiện đăng ký khoản vay, nghiên cứu kỹ các mục đích sử dụng thông tin khi thực hiện giao dịch cũng như nghiên cứu kỹ nội dung hợp đồng trước khi ký, đặc biệt cân nhắc các chi phí phải trả khi tham gia vay trực tuyến, yêu cầu gửi bản sao hợp đồng sau khi ký.
3. Một số gợi ý đối với Việt Nam
Từ kinh nghiệm của những quốc gia đi trước, chúng tôi đề xuất một số gợi ý sau:
Một là, trước tiên cần công nhận P2P Lending và cho phép hoạt động của các công ty P2P Lending, song song đó sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm quản lý loại hình cho vay này, trong đó phải qui định rõ các điều kiện cần thiết để cấp phép hoạt động như yêu cầu mức vốn tối thiểu, mức cho vay tối đa, tiêu chuẩn về công nghệ, điều kiện tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ lãnh đạo của công ty, đảm bảo an toàn hoạt động đối với công ty, các quy định về kiểm tra, giám sát hoạt động của các công ty này cũng như các quy định về quyền tiếp cận thông tin, trách nhiệm của công ty P2P Lending đối với nhà đầu tư trong trường hợp xảy ra đổ vỡ…
Hai là, quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực tài chính ngân hàng, chính quyền địa phương, các hiệp hội, nhằm quản lý có hiệu quả hoạt động P2P Lending.
Ba là, nghiên cứu các giải pháp nhằm quản lý rủi ro hệ thống, rủi ro khủng hoảng truyền thông giữa thị trường P2P Lending với thị trường tài chính nhằm ngăn chặn rủi ro hệ thống, rủi ro lan truyền có thể xảy ra.
Bốn là, quy định cụ thể các nội dung nhằm đảm bảo an toàn cho thị trường, chẳng hạn như giới hạn đầu tư tối đa của người đi vay và cho vay, quy định vốn an toàn tối thiểu của tổ chức cung cấp dịch vụ, cơ chế thiết lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro, quy định bắt buộc mua bảo hiểm tín dụng cho nhà đầu tư; quy định về an toàn, bảo mật thông tin, cũng như trách nhiệm minh bạch hóa hoạt động của các công ty theo hướng các công ty này phải có trách nhiệm báo cáo thông tin cho cơ quan quản lý nhà nước theo định kỳ hoặc đột xuất về hoạt động của mình.
Năm là, xây dựng chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện, trong đó một trong những yêu cầu là giúp cho người dân nâng cao khả năng nhận thức về dịch vụ P2P Lending, cũng như kiến thức cơ bản về tài chính, ngân hàng khác.
Sáu là, nhằm thúc đẩy hoạt động P2P Lending phát triển lành mạnh, an toàn, hiệu quả và bền vững, nhà nước cần chú trọng nâng cấp hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin của quốc gia, đồng thời đẩy nhanh xây dựng chính quyền điện tử, cũng như từng bước đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, trình độ về lĩnh vực tài chính, tiền tệ và công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu quản lý và phát triển loại hình này.
Bảy là, các công ty P2P Lending khi thành lập phải xây dựng được một hệ thống chấm điểm rủi ro tín dụng công khai, minh bạch và xây dựng qui trình thẩm định người đi vay, theo dõi giám sát sau khi cho vay, bảo đảm người vay phải tuân thủ đúng các quy định của hợp đồng; số tiền gửi của nhà đầu tư và người đi vay phải được gửi tại tài khoản ủy thác của bên thứ 3 trước khi thực hiện bất kỳ giao dịch nào.
Tám là, tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm pháp luật về P2P Lending; xử lý nghiêm các cá nhân, tổ chức hoạt động mà không đăng ký kinh doanh P2P Lending.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Hoàng Thị Duyên và Đỗ Thị Tuyết Mai(2019). Cho vay ngang hàng trên thế giới và thực tiễn tại Việt Nam. Tạp chí Tài chính
[2]. Nguyễn Trần Minh Trí(2019). Kinh nghiệm quản lý cho vay ngang hàng tại một số nước. Tạp chí doanh nghiệp và Hội nhập
[3]. http://cafef.vn/cac-nuoc-dang-quan-ly-cho-vay-ngang-hang-nhu-the-nao-20181017140302299.chn
[4]. Caroline Stern, Mikko Mäkinen and Zongxin Qian (2017); FinTechs in China – with a special focus on peer to peer lending
[5]. https://www2.deloitte.com/content /dam/Deloitte/uk/Documents/financial-services/deloitte-uk-fs-marketplace-lending.pdf
[6]. https://www.lendingworks.co.uk/ blog-post/fca-regulation-p2p-lending-industry Fintechnews Singapore (January 31, 2018) New Peer-To-Peer Lending Players In Vietnam.