Việt Nam tiếp tục nằm trong số những nền kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới
Tin tức - Ngày đăng : 17:54, 17/12/2019
Đó là những nhận định của Ngân hàng Thế giới (WB) được công bố chiều ngày 17/12, tại Hà Nội. Theo đánh giá của WB, đây là những kết quả ấn tượng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang chững lại. Báo cáo Điểm lại, cập nhật tình hình kinh tế bán thường niên của WB khẳng định khả năng chống chịu của nền kinh tế Việt Nam. Tăng trưởng GDP được duy trì nhờ vào khu vực kinh tế đối ngoại vững mạnh, với xuất khẩu dự kiến tăng 8% trong năm 2019 - cao hơn gần 4 lần so với bình quân trên thế giới. Việt Nam tiếp tục là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài, bình quân dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cam kết gần 3 tỷ USD mỗi tháng. Bên cạnh đó, tiêu dùng cá nhân của các hộ gia đình là một yếu tố ngày càng quan trọng đóng góp cho tăng trưởng GDP, khi tầng lớp trung lưu đang lớn mạnh và mức lương tăng lên. Đầu tư của các doanh nghiệp ở khu vực tư nhân cũng tăng ở mức 17% so với cùng thời kỳ.
Chính sách tiền tệ phải tiếp tục cân đối giữa hai mục tiêu tăng trưởng và ổn định
Tăng trưởng tín dụng ước đạt 12,5% (so với cùng kỳ năm trước) vào tháng 9, thấp hơn so với chỉ tiêu 14% cho cả năm 2019 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN). Trong tháng 9/2019, do áp lực lạm phát còn thấp, NHNN đã nới nhẹ chính sách tiền tệ bằng cách cắt giảm lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn ở 25 điểm cơ bản, xuống lần lượt còn 4,0% và 6,0% - là đợt điều chỉnh đầu tiên kể từ tháng 7/2017. Quyết định này có hiệu lực từ ngày 16/9/2019, nhằm ứng phó với suy giảm tiếp diễn ở các thị trường toàn cầu, sau động thái tương tự của nhiều ngân hàng trung ương khác trên thế giới và trong khu vực. Lãi suất chính sách được cắt giảm dự kiến sẽ nới lỏng thanh khoản ở các ngân hàng, qua đó tạo điều kiện tăng tín dụng cho nền kinh tế.
NHNN tiếp tục quản lý rủi ro tài chính thông qua các biện pháp phi lãi suất, chẳng hạn bằng trần tăng trưởng tín dụng (cho toàn bộ hệ thống ngân hàng và cho từng ngân hàng) kèm theo các biện pháp an toàn vĩ mô khác. NHNN tiếp tục duy trì quy định giới hạn vốn vay cho lĩnh vực bất động sản (chủ yếu để mua căn hộ cao cấp, là lĩnh vực đầu cơ) và các lĩnh vực rủi ro cao khác (cổ phiếu và chứng khoán). Mới đây, kể từ ngày 19/11, NHNN đã điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND (giảm 0,2 và 0,5 điểm phần trăm tương ứng với tiền gửi 1 tháng và dưới 6 tháng). NHNN cũng yêu cầu hạ lãi suất cho vay tối đa bằng VND, từ 6,5% xuống 6% nhằm hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao và xuất khẩu.
Quang cảnh buổi công bố của WB |
NHNN tiếp tục theo đuổi chính sách nhằm tiếp tục giảm tình trạng đô la hóa trong khu vực tài chính. Theo số liệu của NHNN, tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ trên tổng tiền gửi của hệ thống ngân hàng giảm từ 10,8% vào tháng 12/2015 xuống còn 7,7% trong tháng 6/2019. Đồng thời, tỷ trọng cho vay bằng ngoại tệ cũng giảm tử 9,1% xuống 6,5%. Ngoài duy trì chính sách lãi suất tiền gửi đô la bằng không (áp dụng từ năm 2015), NHNN còn ban hành Thông tư số 42/2018/TT-NHNN, cấm cho vay ngắn hạn bằng ngoại tệ từ đầu năm 2019 và cấm cho vay trung hạn bằng ngoại tệ từ tháng 10/2019. Hiện nay các đơn vị nhập khẩu có nhu cầu phải mua ngoại tệ. Các biện pháp trên phù hợp với mục tiêu loại bỏ hoàn toàn hoạt động cho vay ngoại tệ, giảm tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ trên tổng tiền gửi bằng ngoại tệ trên tổng tiền gửi xuống dưới 5% vào năm 2030, như đã nêu trong Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 986 năm 2018.
Ổn định trong khu vực ngân hàng tiếp tục được cải thiện, phản ánh một số tiến triển về giải quyết nợ xấu và thuận lợi cao hơn ở khu vực ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu hiện nằm dưới 2% vào cuối quý III/2019 (và dưới 5% nếu tính cả ở tại Công ty Quản lý Tài sản của các Tổ chức tín dụng VAMC). Nghị quyết số 42 giúp các tổ chức tín dụng và VAMC đẩy mạnh xử lý nợ xấu. Theo số liệu thống kê của NHNN, trong 2 năm (tháng 8/2017 - tháng 8/2019), mỗi tháng có 9,8 nghìn tỷ đồng nợ xấu được xử lý, cao hơn 4,7 nghìn tỷ đồng so với bình quân hàng tháng thời kỳ trước khi có Nghị quyết 42. Không chỉ tình hình nợ xấu được cải thiện, tình hình nợ xấu ngầm ẩn của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và nợ xấu ngoại bang cũng có tiến triển khi tỷ trọng nợ trong danh mục của các ngân hàng giảm từ 7,6% cuối năm 2016 xuống còn 3,9% cuối quý I/2019. Các biện pháp chủ động như thu hồi và bán sản phẩm thế chấp (nhà đất…), tái cơ cấu nợ nương theo biến động chu kỳ, bán nợ xấu, đã góp phần đem lại kết quả tích cực trên.
Tỷ lệ vốn hóa ở hệ thống ngân hàng là một thách thức, vì đến cuối tháng 9/2019 mới chỉ có 12/45 ngân hàng đang hoạt động ở Việt Nam báo cáo có tỷ lệ an toàn vốn (CAR) tuân thủ các yêu cầu của Basel II (căn cứ theo Thông tư 41 ban hành năm 2016 về tỷ lệ an toàn vốn và Thông tư 23 năm 2018 về kiểm toán nội bộ). Các nỗ lực nâng tỷ lệ vốn ở các ngân hàng thương mại gặp phải những thách thức như trần sở hữu nước ngoài, tỷ lệ sở hữu Nhà nước, hoặc tỷ lệ tài sản quá lớn ở các ngành rủi ro cao.
Cần quan tâm để đẩy mạnh sự phát triển của các thị trường vốn
Ông Ousmane Dione - Giám đốc WB Việt Nam - đánh giá: Triển vọng trước mắt và trong trung hạn là tích cực khi WB dự báo GDP tăng trưởng quanh mức 6,5% trong những năm tới. Các yếu tố căn bản của nền kinh tế Việt Nam vẫn vững vàng, Chính phủ đã tạo được dư địa tài khóa nhất định thông qua chính sách tài khóa thận trọng. Tuy nhiên, quốc gia vẫn chưa hoàn toàn miễn dịch với các cú sốc bên ngoài, với minh chứng là tăng trưởng xuất khẩu giảm từ 21% xuống còn 8% từ năm 2017 đến năm 2019. Tăng trưởng xuất khẩu còn giảm rõ rệt hơn nếu nhìn vào các thị trường xuất khẩu ngoài Mỹ, chỉ tăng được 3,6% trong 11 tháng đầu năm 2019. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các cơ sở sản xuất kinh doanh mới cũng tăng chậm lại 30% so với hai năm trước đó, kể cả sau khi đã tính đến sự tăng trưởng trong đầu tư qua kênh mua bán sát nhập (M&A).
Xét những rủi ro bên ngoài nêu trên, đồng thời để mang đến động lực tăng trưởng bổ sung cho nền kinh tế, báo cáo khuyến nghị cần ưu tiên phát triển khu vực tư nhân vững mạnh và năng động. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp đang hoạt động ở thị trường trong nước vẫn đang phải đối mặt với những trở ngại lớn, hạn chế sự phát triển, trong đó được nói đến nhiều nhất là khả năng tiếp cận tín dụng.
Việt Nam chắc chắn vẫn nằm trong số những nền kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới |
“Xử lý những hạn chế về huy động tài chính cho doanh nghiệp cần nhận được sự quan tâm cao nhất của các nhà hoạch định chính sách nếu Việt Nam muốn tiếp tục quỹ đạo tăng trưởng nhanh và bao trùm hướng tới trở thành quốc gia thu nhập cao trong những thập kỷ tới,” - ông Ousmane Dione nói.
Báo cáo cho rằng cần phát triển các thị trường vốn vận hành tốt, làm nền tảng cho sự thịnh vượng của Việt Nam trong tương lai. Theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm cả ở khu vực Đông Á, thị trường cổ phiếu và trái phiếu hoạt động tốt có thể giúp huy động vốn cho sản xuất kinh doanh trong nước, bổ sung cho nguồn vốn vay từ hệ thống ngân hàng và đa dạng hóa các nguồn huy động vốn. Điều này cũng góp phần nâng cao khả năng chống chịu của toàn bộ hệ thống tài chính nhờ đảm bảo thanh khoản sâu hơn và đa dạng hóa được rủi ro.
Mặc dù các thị trường vốn ở Việt Nam đã phát triển mạnh trong những năm qua, nhưng vẫn còn nhỏ so với Thái Lan và Malaysia lần lượt ở mức từ 1,5 đến 2 lần.
Báo cáo khuyến nghị năm lĩnh vực mà các nhà lập chính sách cần quan tâm để đẩy mạnh sự phát triển của các thị trường vốn, bao gồm: hiện đại hóa nền tảng quy phạm pháp luật về thị trường vốn; cải thiện quản trị và công bố thông tin; mở rộng mạng lưới các nhà đầu tư; phát triển các sản phẩm sáng tạo; và tăng cường vai trò của Chính phủ trong phát triển các nguồn huy động tài chính dài hạn.