Nền kinh tế số: Kinh nghiệm phát triển ở một số quốc gia - bài học cho Việt Nam

Nghiên cứu - Trao đổi - Ngày đăng : 08:26, 02/01/2020

(thitruongtaichinhtiente.vn) - Bài viết tổng hợp những kết quả đạt được của một số nước như, Hàn Quốc và Trung Quốc và từ đó rút ra một số hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế số ở Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0.

Ngày nhận bài: 8/11/2019 - Ngày biên tập: 14/11/2019 - Ngày duyệt đăng: 5/12/2019. Bài đăng trên Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 24/2019

Tóm tắt: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) gói gọn các xu hướng phát triển công nghiệp trong tương lai để đạt được các quy trình sản xuất thông minh hơn, bao gồm sự phụ thuộc vào hệ thống vật lý điện tử (CPS), xây dựng hệ thống sản xuất vật lý điện tử (CPPS), triển khai và vận hành các nhà máy thông minh. Bài viết này tổng hợp những kết quả đạt được của một số nước như, Hàn Quốc và Trung Quốc, đưa ra nguyên nhân giúp các nước đạt được kết quả này và từ đó rút ra một số hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế số ở Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0.

Từ khóa: CMCN 4.0, intenet, thương mại điện tử

Digital economy: deveLopment experience in some countries - lessonS for Vietnam

Abstract: Industrial revolution 4.0 (fourth industrial revolution) encapsulates future industrial development trends to achieve smarter manufacturing processes, including reliance on electronic physical systems (CPS), building an electronic physical manufacturing system (CPPS), deploying and operating intelligent plants. This paper summarizes the results of several countries such as South Korea, and China, giving some reasons for these results, from which to draw some experience to promote the development of the digital economy in Vietnam in the period of industrial revolution 4.0.

Keywords: Industrial revolution 4.0, internet, e-commerce

1. Giới thiệu

Cách mạng công nghiệp nói chung, đặc biệt là cách CMCN 4.0, không chỉ tạo ra những đột phá trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, mà điều quan trọng là còn làm cho sự phát triển của các lĩnh vực đó diễn ra với những gia tốc khác nhau giữa các quốc gia, khu vực. Một mặt, nó vừa tạo ra cơ hội để các quốc gia đang phát triển có thể nhanh chóng rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển,  mặt khác cũng có thể làm gia tăng khoảng cách tụt hậu vốn đã có sẵn của các nước đang phát triển, bởi các quốc gia phát triển, có tiềm lực khoa học, kĩ thuật, công nghệ và công nghiệp mạnh mẽ, sẽ đi vào tương lai với tốc độ ngày càng nhanh.

Nhận thức được tầm quan trọng của đổi mới sáng tạo công nghệ theo CMCN 4.0, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4; Ban Chấp hành TW Đảng ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018  về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030 tầm nhìn 2045. Đặc biệt vừa qua, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 52/NQ-TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0. Bên cạnh quyết tâm chính trị, có thể thấy Việt Nam hiện có nền tảng thể chế và công nghệ ở mức khá tích cực để có thể hiện thực hóa các chủ trương và chính sách trên. Với dân số gần 100 triệu người, lượng người dùng Internet và điện thoại thông minh đông đảo, độ bao phủ của hạ tầng Internet và viễn thông tương đối rộng khắp, Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển nền kinh tế số.  Tuy nhiên, thách thức trong quá trình phát triển kinh tế số cũng không ít và Việt Nam phải đối mặt với nhiều vấn đề từ hành lang pháp lý, hạ tầng công nghệ đến nguồn nhân lực phát triển kinh tế số… Trong khu vực, các nước có nền kinh tế số phát triển như Singapore, Hàn Quốc và Trung Quốc thực sự có thể đem đến nhiều kinh nghiệm hữu ích giúp Việt Nam có thể nhìn nhận và rút ra những bài học kinh nghiệm hướng đến phát triển nền kinh tế số linh hoạt và hiệu quả. Do đó, bài viết này tổng hợp những kết quả trong quá trình phát triển kinh tế số của Singapore, Hàn Quốc và Trung Quốc, tìm hiểu những nguyên nhân giúp các nước đạt được những kết quả trên và từ đó rút ra một số hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế số ở Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0.

2. Công nghiệp 4.0

Kể từ cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên, các cuộc cách mạng tiếp theo đã dẫn đến những thay đổi căn bản trong sản xuất, từ máy chạy bằng nước và hơi nước đến sản xuất tự động điện và kỹ thuật số. Các quy trình sản xuất ngày càng phức tạp, tự động và bền vững, điều đó có nghĩa là mọi người có thể vận hành máy móc một cách đơn giản, hiệu quả và bền bỉ (Wahlster, 2012). Thực tế cho thấy, những vấn đề dân số già và sự cạnh tranh mà các nước đang phải đối diện ngày càng gia tăng, do đó đã thúc đẩy sự phát triển của các công nghệ công nghiệp để giảm nhân công lao động, rút ​​ngắn thời gian phát triển sản phẩm, sử dụng tài nguyên hiệu quả, trong đó hệ thống vật lý điện tử (CPS) và Internet vạn vật kết nối  (IoT) là các công nghệ tiên tiến đã được áp dụng trong thập kỷ qua.

Hiện nay, CMCN 4.0 là một thuật ngữ phổ biến để mô tả những thay đổi sắp xảy ra của bối cảnh ngành, đặc biệt là trong ngành sản xuất và sản xuất của các nước phát triển. Tuy nhiên, thuật ngữ này vẫn được sử dụng trong các bối cảnh khác nhau và thiếu một định nghĩa rõ ràng. Thuật ngữ Công nghiệp 4.0 được biết đến công khai vào năm 2011, khi một sáng kiến có tên là Công nghiệp 4.0, một hiệp hội đại diện từ kinh doanh, chính trị và học thuật - đã thúc đẩy ý tưởng này như một cách tiếp cận để tăng cường khả năng cạnh tranh của ngành sản xuất Đức (Kagermann et al., 2011). Chính phủ liên bang Đức đã ủng hộ ý tưởng này bằng cách tuyên bố rằng Công nghiệp 4.0 sẽ là một phần không thể thiếu trong Chiến lược công nghệ cao 2020 của họ, nhằm mục đích lãnh đạo đổi mới công nghệ. Sau đó, Nhóm Công nghiệp 4.0 được thành lập và phát triển các khuyến nghị đầu tiên để thực hiện, được công bố vào tháng 4/2013 (Kagermann et al., 2013). (Thắng, 2017) cho rằng công nghiệp 4.0 là sự hợp nhất của những công nghệ, tạo sự liên kết giữa không gian vật lý, số và sinh học… là khả năng hàng tỷ người có thể kết nối với nhau thông qua các thiết bị di động với năng lực tính toán và khả năng lưu trữ dữ liệu cực lớn và việc truy cập không giới hạn với tri thức nhân loại; công nghệ lõi thúc đẩy những liên kết này là robot tự hành, dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), in 3D, điện toán đám mây, thực tế ảo, internet vạn vật (IoT) (Hà, 2017).

Công nghiệp 4.0 tập trung vào việc thiết lập các sản phẩm thông minh và quy trình sản xuất. Trong tương lai, các nhà máy phải đối phó với nhu cầu phát triển sản phẩm nhanh chóng, sản xuất linh hoạt cũng như môi trường phức tạp (Vyatkin et al., 2007). Tóm lại công nghiệp 4.0 là xu hướng hiện tại của tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất. Nó bao gồm các hệ thống mạng vật lý, mạng Internet kết nối vạn vật và điện toán đám mây.

Công nghiệp 4.0 có tiềm năng rất lớn. Các nhà máy thông minh cho phép các yêu cầu của khách hàng cá nhân được đáp ứng và có nghĩa là ngay cả các mặt hàng một lần cũng có thể được sản xuất có lợi nhuận. Ví dụ, trong ngành Công nghiệp 4.0, các quy trình kỹ thuật và kinh doanh năng động cho phép thay đổi sản xuất vào phút cuối và cung cấp khả năng đáp ứng linh hoạt trước sự gián đoạn và thất bại thay mặt cho các nhà cung cấp. Tính minh bạch cuối cùng được cung cấp trong quá trình sản xuất, tạo điều kiện cho việc ra quyết định được tối ưu hóa. Công nghiệp 4.0 cũng sẽ dẫn đến những cách thức mới để tạo ra giá trị và mô hình kinh doanh mới lạ. Đặc biệt, nó sẽ cung cấp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp và doanh nghiệp nhỏ cơ hội phát triển và cung cấp dịch vụ hạ nguồn (Henning, 2013).

Như vậy, công nghiệp 4.0 đang diễn ra, với nhiều công nghệ đa dạng ở trình độ và quy mô khác nhau, tạo ra những thay đổi chưa từng có. Công nghiệp 4.0 đòi hỏi nhà nước, doanh nghiệp và xã hội nói chung cần nắm bắt, học hỏi để nâng cao năng lực công nghệ của mình nhằm thích ứng trong ứng dụng, phát huy các cơ hội và ứng phó được những thách thức công nghiệp 4.0 tạo ra.

3. Kinh nghiệm phát triển nền kinh tế số ở một số quốc gia

3.1 Kinh nghiệm của Hàn Quốc

3.1.1 Thành tựu đạt được

Thứ nhất, phải kể đến việc thành lập chính phủ điện tử từ năm 1980 của Hàn Quốc. Những nỗ lực đầu tiên trong việc xây dựng chính phủ điện tử được tiến hành vào cuối những năm 1980 bằng việc thực hiện dự án Hệ thống thông tin cơ bản quốc gia (NBIS), trong đó tập trung vào việc triển khai các các ứng dụng CNTT trên toàn quốc. Các sáng kiến chính phủ điện tử của Hàn Quốc tập trung vào 3 mảng dịch vụ chính bao gồm: (i) Chính phủ vì Công dân (G4C); (ii) Chính phủ với Doanh nghiệp (G2B); và (iii) Chính phủ với Chính phủ (Dịch vụ liên chính phủ - G2G). Hàng ngàn dịch vụ công đã có sẵn trên mạng thông qua các biểu mẫu điện tử trên khắp các trang web chính phủ trung ương, khu vực và địa phương. Hệ thống chính phủ điện tử ưu việt của Hàn Quốc đóng vai trò như một mẫu hình cho nhiều quốc gia khác tham khảo và học tập. Ngay từ năm 2010, Hàn Quốc đã ký hợp đồng trị giá tới 73 triệu USD với Indonesia, Sri Lanka và một số nước đang phát triển khác nhằm xuất khẩu bí quyết và công nghệ để xây dựng hệ thống chính phủ điện tử (Kim, 2009).

Thứ hai, phổ cập Internet. Theo kết quả khảo sát của Bộ Khoa học, Công nghệ thông tin và truyền thông, và Quy hoạch Hàn Quốc thì tỷ lệ dân số Hàn Quốc sử dụng Internet (tính từ trẻ 3 tuổi trở lên) năm 2016 đạt 88,3%, tăng 3,2% so với năm 2015. Đến tháng 11/2019 mức độ phổ cập internet ở Hàn Quốc đạt mức 89,3% cụ thể số lượng điện thoại thông minh ở Hàn Quốc lên tới 50,5 triệu vào tháng 10 vừa qua, so với 48,3 triệu chiếc một năm trước đó. Bên cạnh đó, xứ kim chi cũng là nước đi đầu về những xu hướng công nghệ mới trong đó có mạng 5G. Theo công ty chuyên nghiên cứu thị trường Strategy Analytics, tỷ lệ chấp nhận điện thoại thông minh 5G tại Hàn Quốc dự kiến sẽ đạt 5.5% vào năm 2019 và 10.9% vào năm 2020. Đây là con số cao nhất trong tất cả các quốc gia trên toàn cầu. Mức độ phổ cấp điện thoại thông minh đạt mức 80,6% và ước tính tăng đến 85,4% sau 4 năm nữa.

Thứ ba, mảng giao dịch TMĐT. Hàn Quốc hiện có quy mô dân số 51,2 triệu người với tổng sản phẩm trong nước đạt 1,8 nghìn tỷ USD, xếp thứ 7 trên thế giới và thứ 3 ở châu Á về quy mô thị trường thương mại điện tử. Các website bán hàng trực tuyến ở Hàn Quốc chiến đến 42% doanh số bán lẻ của các nước, tỷ lệ này càng tăng. Trong đó 70% khách hàng mua sắm trực tuyến thực hiện giao dịch qua máy tính, 25% giao dịch qua smartphone và khoảng 2% thông qua máy tính bảng. Với khảo sát về giao dịch trực tuyến ở Hàn Quốc cho thấy 34% người Hàn Quốc sử dụng dịch vụ cổng thanh toán trực tuyến và 29% ưa sử dụng thanh toán qua ngân hàng. Cơ quan thống kê của Hàn Quốc cho hay, tổng giá trị mua sắm trực tuyến trong tháng 11 năm 2019 tại Hàn Quốc đạt con số 10,62 nghìn tỷ Won (tương đương với 9,5 tỷ USD, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Doanh số bán hàng trực tuyến ở xứ kim chi tăng 22,7% năm 2019 so với năm 2018 lên mức 1,68 nghìn tỷ won. Riêng doanh số bán ra của các mặt hàng thời trang online đã tăng vọt 10.4% lên mức 1,45 nghìn tỷ won trong tháng 11. Trong khi đó, doanh số bán hàng thực phẩm và đồ uống trực tuyến tăng 32,3% lên 911,4 tỷ won. Và các giao dịch thương mại điện tử thông qua điện thoại thông minh, máy tính bảng và các thiết bị di động khác đã tăng 28% so với cùng kỳ năm ngoái.

3.1.2 Nguyên nhân

Thành công trong phát triển kinh tế số như ngày nay của Hàn Quốc cần kể đến các yếu tố quyết định sau:

Thứ nhất, Chính phủ Hàn Quốc hoạch định các chính sách kịp thời và triển khai mạnh mẽ đã tạo nên một khởi đầu hoàn hảo và các chính sách này đang tiếp tục được thực hiện hiệu quả.

Thứ hai, môi trường cạnh tranh lành mạnh. Chính phủ duy trì được môi trường cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích đổi mới sáng tạo. Song song với việc thiết lập mạng lưới Internet khu vực công, Chính phủ Hàn Quốc duy trì hỗ trợ đầu tư vào khu vực tư nhân thông qua các chính sách điều tiết nhất quán. Các chính sách này đảm bảo việc giảm trở ngại đối với các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) mới, thúc đẩy một môi trường cạnh tranh. Chính sách này giúp các nhà khai thác thuộc khu vực tư nhân có thể mở rộng Internet từ một khung cốt lõi vào hệ thống toàn quốc và tăng tốc độ Internet thông qua cuộc cạnh tranh khốc liệt.

Thứ ba sự hỗ trợ mạnh mẽ từ chính phủ trên mọi mặt từ hành lang pháp lý, các quy định để thúc đẩy tiêu dùng trực tuyến tới hỗ trợ nguồn vốn đầu tư cho các công ty. Về hành lang pháp lý, một động thái mang tính bước ngoặt là Chính phủ Hàn Quốc đã quy định cho phép sử dụng chữ ký trực tuyến trong TMĐT và chính phủ cũng đã phát triển các quy định liên quan đến bảo vệ thông tin cá nhân và hướng dẫn khu vực tư nhân sử dụng công nghệ mã hóa. Ngoài ra, Hàn Quốc loại bỏ yêu cầu bắt buộc các dịch vụ ngân hàng và mua sắm trực tuyến phải sử dụng phần mềm mã hóa dữ liệu của Microsoft (được gọi là Active X) để kiểm tra định danh trong các giao dịch. Động thái này được coi là tích cực, cho phép sử dụng các phần mềm khác nhau cho các dịch vụ ngân hàng trực tuyến và mua sắm, qua đó thúc đẩy cạnh tranh và bắt kịp với tiến bộ công nghệ.

Thứ tư, đặc điểm về văn hóa. Theo đó, văn hóa Hàn Quốc tập trung vào tầm quan trọng của đạo đức và tính kiên trì, một khi đã đặt mục tiêu phát triển công nghệ thì người Hàn Quốc không lùi bước. Đồng thời, Chính phủ Hàn Quốc nỗ lực thúc đẩy Internet như một công cụ giáo dục và tiến bộ, chú trọng tới việc kết nối giáo dục với Internet và coi đây như một cách hữu ích để phát triển tư duy trong thế kỷ 21

3.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc

3.2.1. Thành tựu đạt được

Báo cáo của Viện Nghiên cứu toàn cầu McKinsey khẳng định Trung Quốc hiện là cường quốc công nghệ số với tiềm năng tăng trưởng khổng lồ. Chính phủ triển khai ứng dụng công nghệ điện tử trên nhiều phương diện.

Thứ nhất, phải kể đến việc thành lập chính phủ điện tử từ năm 2004 của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc đã thay đổi nhận thức, ứng dụng công nghệ vào công tác quản lý như chữ ký điện tử. 75 cơ quan nhà nước và trung ương, 32 chính quyền cấp tỉnh, 333 chính quyền cấp quận/huyện và hơn 80 chính quyền cấp thị trấn đã thiết lập trang web riêng của họ, cung cấp nhiều dịch vụ trực tuyến tạo thuận lợi cho công việc và đời sống của người dân. Thêm nữa, để tạo điều kiện tương tác với công chúng, Chính phủ Trung Quốc đã hoạt động tích cực trên các mạng xã hội như Sina Weibo và Tencent WeChat. Tương tác thông qua hình thức blog nhanh (hay còn gọi là tiểu blog – Microblogging) cũng phát triển nhanh chóng kể từ khi microblogging chính trị đầu tiên đi vào hoạt động năm 2009 và đến đầu năm 2015 đã có khoảng 280.000 tài khoản Weibo của chính phủ, bao phủ nhiều hoạt động của các cơ quan từ cơ quan cảnh sát, Tòa án tối cao đến cá nhân quan chức chính phủ.

Thứ hai, ngân hàng điện tử. Hệ thống ngân hàng hiện đại hóa phương thức cho vay ngang hàng (P2P lending) truyền thống bằng cách áp dụng công nghệ dựa trên Internet và cải thiện các quy định pháp lý nhằm hỗ trợ các DNNVV tiếp cận tín dụng. Khu vực DNNVV trước đây thường gặp khó khăn khi tiếp cận nguồn tài chính từ hệ thống ngân hàng quốc doanh Trung Quốc. Từ khi ứng dụng công nghệ thì chương trình P2P lending rất phổ biến ở Trung Quốc và Internet đã mở rộng khả năng tiếp cận tài chính thông qua các hoạt động P2P lending với khoảng 2.000 trang web như vậy được thành lập từ năm 2007. Đến nay Trung Quốc là nước dẫn đầu thị trường cho vay P2P trên toàn cầu với doanh số có thời điểm lên 192 tỉ USD, kế đến là Mỹ, Anh, Thụy Sĩ, Ý. Đến năm 2017, cho vay P2P phát triển khá mạnh tại Trung Quốc khi người dân xem đây là kênh đầu tư. Theo Hiệp hội Tài chính internet quốc gia Trung Quốc, đến tháng 6/2018 có khoảng 50 triệu người tham gia vào nền tảng cho vay P2P lending, với tổng dư nợ lên đến 1.300 tỷ nhân dân tệ (tương đương 192 tỷ USD).

Thứ ba, thanh toán điện tử. Người dân Trung Quốc ngày càng chuộng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, như quét mã QR, thanh toán bằng ví điện tử. Rất nhiều sản phẩm tiêu dùng cơ bản đều cho phép thanh toán di động. Hai ứng dụng thanh toán điện tử phổ biến nhất hàng ngày tại Trung Quốc là WeChat Pay (Tenpay) của Tencent và Alipay của Alibaba. Đây là loại hình thanh toán dùng ví điện tử qua điện thoại di động, đòi hỏi người dùng phải đăng ký bằng tên thật, kết nối với tài khoản ngân hàng. Tại các ngân hàng, nhân viên có thể hỗ trợ khách hàng toàn bộ quá trình liên kết và kích hoạt ví điện tử. Quy mô thị trường thanh toán di động tại Trung Quốc đã tăng mạnh  đã đạt quy mô 1,2 nghìn tỷ USD trong năm 2018. Theo Forbes, số lượng người sử dụng thanh toán di động tại Trung Quốc đại lục dự kiến sẽ tăng ồ ạt và đạt 956 triệu người vào năm 2023. Với sự bùng nổ của công nghệ thanh toán và sự vào cuộc mạnh mẽ của các doanh nghiệp thương mại điện tử khổng lồ như: Alibaba, Tencent… đến nay, Trung Quốc là thị trường lớn nhất thế giới về thanh toán kỹ thuật số, chiếm gần 50% thị phần toàn cầu. Thanh toán di động tại Trung Quốc đã phát triển thành một thị trường trị giá 16 nghìn tỷ USD, thị trường do 2 gã khổng lồ công nghệ lớn nhất Trung Quốc  là Tencent và Alibaba thống trị. Về thị phần, Alipay chiếm 54% so với 40% của WeChat Pay. Với việc thống lĩnh thị trường với thị phần chiếm lớn nhất, Alipay của Alibaba và WeChat Pay của Tencent bỏ xa các đối thủ quốc tế như Samsung Pay hay Apple Pay. Tuy nhiên, cuộc chiến dành cho vị trí thống trị ngành Công nghiệp thanh toán di động chỉ mới bắt đầu nóng lên. Mới đây, Công ty nghiên cứu CLSA dự đoán, quy mô thanh toán điện tử tại Trung Quốc sẽ tăng gấp 4, lên 300 nghìn tỷ NDT năm 2021.

Thứ tư, mảng giao dịch TMĐT. Lượng giao dịch TMĐT của Trung Quốc lớn hơn con số cộng gộp của 5 nền kinh tế hàng đầu thế giới gồm Pháp, Đức, Nhật Bản, Anh và Mỹ. Trong thập kỷ qua, thị trường thương mại điện tử của Trung Quốc đã phát triển vượt bậc. Khoảng 10 năm trước, Trung Quốc chiếm chưa đến 1% thị trường thương mại điện tử toàn cầu; nhưng hiện nay Trung Quốc đã bứt tốc thần kỳ vươn lên tới con số khổng lồ 42% và trở thành thị trường thương mại điện tử số 1 thế giới. Tổng số giao dịch thương mại điện tử hàng năm ở Trung Quốc xử lý nhiều hơn so với Pháp, Đức, Nhật Bản, Anh và Mỹ cộng lại.

Theo báo cáo của Vụ Thương mại điện tử và Tin học của Bộ Thương mại Trung Quốc, doanh thu bán lẻ trực tuyến toàn cầu năm 2018 ước đạt là 2.800 tỷ USD, tăng 23,3% so với năm 2017. Trong khi đó, doanh thu bán lẻ toàn cầu năm 2018 là 23.900 tỷ USD. Bán lẻ trực tuyến đã dần trở thành một kênh quan trọng cho tiêu dùng toàn cầu và nền kinh tế nền tảng được đại diện bởi thương mại điện tử đang có sự tăng trưởng mạnh và trở nên phổ biến trên phạm vi toàn cầu, thúc đẩy xu hướng toàn cầu hóa không thể đảo ngược. Theo Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc, trong năm 2018, doanh thu thương mại điện tử của nước này đạt 31.630 tỷ nhân dân tệ (khoảng 4.720 tỷ USD) và doanh thu bán lẻ trực tuyến đã vượt 9.000 tỷ nhân dân tệ, tăng 23,9% so với năm 2017. Do đó, Trung Quốc vẫn là thị trường bán lẻ trực tuyến lớn nhất thế giới. Thương mại điện tử cũng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế của Hồng Kông. Ước tính, năm 2019, chỉ riêng thương mại điện tử sẽ tạo ra doanh thu trị giá 4.800 triệu USD (khoảng 32,2 tỷ nhân dân tệ) tại Hồng Kông. Con số này sẽ tăng lên với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm là 7,4% từ năm 2019 đến 2023 và quy mô thị trường sẽ đạt được 6.400 triệu USD (khoảng 43 tỷ nhân dân tệ) vào năm 2023. Như vậy, lĩnh vực thương mại điện tử sẽ có tiềm năng phát triển mạnh trong 4 năm tới. Và theo một số nghiên cứu, dự đoán quy mô thanh toán điện tử tại Trung Quốc sẽ tăng gấp 4 lần lên 300.000 tỷ Nhân dân tệ năm 2021.

3.2.2. Nguyên nhân

Có được thành công kể trên, đầu tiên phải kể đến chính là nhờ quy mô thị trường khổng lồ với đông đảo người dân sử dụng internet trẻ, đam mê và năng động, điều kiện phát triển và ứng dụng nhanh các công nghệ số. Năm 2016, Trung Quốc có 731 triệu người sử dụng internet, nhiều hơn cả EU và Mỹ cộng lại. Trung Quốc cũng có 695 triệu người sử dụng điện thoại di động (95% trong số đó sử dụng Internet), so với con số tương ứng là 343 triệu người tại EU (79%), và 262 triệu người tại Hoa Kỳ (91%). Mặt khác, theo báo cáo vào tháng 1/2018 do Trung tâm Thông tin mạng internet Trung Quốc, khoảng 57,7% dân số Trung Quốc là người dùng được kết nối internet. Hơn 800 triệu người ở Trung Quốc đang hoạt động trên internet, trong đó 98% là người dùng di động (788 triệu người).

Thứ hai, môi trường cạnh tranh mạnh mẽ giữa các công ty trong hệ sinh thái. Được chính phủ khuyến khích thử nghiệm với các mô hình kinh doanh dựa vào Internet, các công ty Trung Quốc đang tạo nên cuộc cách mạng trong phương thức kinh doanh, tạo áp lực lớn đến phương thức kinh doanh truyền thống, dẫn đến cạnh tranh, bắt buộc các công ty cần phải thay đổi để có thể tồn tại và phát triển trong xu hướng công nghệ 4.0 này.

Thứ ba, sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Chính phủ. Chính phủ TQ không chỉ là cơ quan ban hành chính sách mà còn đóng vai trò đầu tư, sáng tạo và người tiêu dùng trong nỗ lực để hỗ trợ số hóa. Trung Quốc cũng khuyến khích phát triển kinh tế số hóa và coi đây như một giải pháp giúp tái cân bằng cho nền kinh tế, tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào xây dựng cơ sở hạ tầng và thúc đẩy tiêu dùng nội địa, giúp các DN phát triển. Bên cạnh đó, Chính phủ có chính sách cụ thể để kêu gọi đầu tư và hỗ trợ mọi mặt, chung tay giúp các công ty phát triển, đặc biệt chính sách khuyến khích các hoạt động trực tuyến đã rất thành công khi mà tiêu dùng trực tuyến ở Trung Quốc dần dần trở thành một trong những lĩnh vực kinh tế sáng tạo nhất, tăng trưởng nhanh nhất và được chấp nhận rộng rãi nhất, trở thành động lực lớn khuyến khích nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo ra nhiều công ăn việc làm và thúc đẩy nâng cấp cơ cấu công nghiệp. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng xác định sẽ thực hiện ưu đãi và hỗ trợ cho các lĩnh vực như điện tử thông minh, giáo dục và điều trị y tế trực tuyến, thương mại điện tử, mạng di động 5G và các dịch vụ viễn thông tại những khu vực nông thôn. Ngoài ra chính phủ còn có các chính sách khuyến khích công dân tham gia khởi nghiệp và những hoạt động đổi mới sáng tạo thông qua các biện pháp hỗ trợ như miễn, giảm thuế thu nhập.

4. Một số hàm ý đối với Việt Nam

4.1 Tổng quan phát triển kinh tế số ở Việt Nam

Với dân số gần 100 triệu người, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế số ở mức khá trong khu vực ASEAN. Việt Nam đã ghi nhận sự xuất hiện xu hướng số hóa ở nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế, từ thương mại, thanh toán cho đến giao thông, giáo dục, y tế… Ngoài ra, thị trường TMĐT cũng phát triển nhanh và quy mô thị trường quảng cáo trực tuyến của Việt Nam cũng có xu hướng tăng nhanh. Việt Nam đang có những điều kiện tốt cho nền kinh tế số phát triển mạnh. Internet đã trở thành một phần thiết yếu của các ngành thương mại dịch vụ như ngân hàng, giao thông, y tế… , ước tính mức độ đóng góp của Internet là khoảng 2-3% GDP của Việt Nam và dự báo sẽ tăng đến 40-50% GDP trong tương lai. Trong 10 năm qua, kinh tế số Việt Nam đã phát triển không ngừng về cả nền tảng hạ tầng lẫn thị trường kinh doanh. Năm 2019, dân số Việt Nam đạt mốc xấp xỉ 97 triệu dân, với tỷ lệ dân thành thị là 36%, sở hữu 64 triệu người dùng Internet, trung bình người Việt dành 3 giờ 12 phút sử dụng Internet trên thiết bị di động như điện thoại thông minh, và theo tỷ lệ trung bình trong khu vực, việc sử dụng tập trung vào nhóm các ứng dụng mạng xã hội và truyền thông liên lạc (52%), ứng dụng xem video (20%) và game (11%), cùng các ứng dụng cho công việc. Theo số liệu thống kê, có tới 58 triệu người dùng mạng xã hội trên thiết bị di động tính đến đầu năm 2019, con số này tăng đến 8 triệu người dùng so với năm 2018. Cùng với sự phát triển của công nghệ, các dòng điện thoại phân khúc tầm trung – thấp liên tục được ra đời giúp cho nhiều người có thể dễ dàng sở hữu những chiếc điện thoại thông minh và tiếp cận với Internet. Số thuê bao điện thoại đã được đăng ký lên tới 143,3 triệu số. Điều này cho thấy phần đông người dân Việt Nam đã tiếp cận với điện thoại di động thông minh và cũng không ít người sử dụng 2-3 chiếc điện thoại cùng lúc để phục vụ cho cuộc sống. Dựa trên số liệu của Tập đoàn Miniwatts Marketing, Việt Nam hiện xếp thứ 13 trong top 20 quốc gia có số dân sử dụng mạng Internet đông nhất thế giới.

Trong hệ sinh thái số, có ba thị trường nổi bật là viễn thông, CNTT và TMĐT. Các doanh nghiệp viễn thông, Internet ở Việt Nam đã phát triển vượt bậc và đạt mức doanh thu 6,1 tỷ USD, góp phần tạo ra hơn 851.000 việc làm cho xã hội. Thương mại điện tử cũng tăng trưởng vượt bậc về doanh thu và quy mô thị trường, hiện ở mức 5,2 tỷ USD. Năm 2018 cũng đánh dấu sự tăng trưởng tốt của mô hình kinh doanh trên các mạng xã hội, có thể thấy đây là hình thức hiệu quả với chi phí thấp đang được nhiều doanh nghiệp lựa chọn mà điển hình là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh và cá nhân. Trong số các doanh nghiệp tham gia khảo sát thì có 36% doanh nghiệp cho biết có bán hàng trên mạng xã hội (tăng 4% so với năm 2017). Đồng thời, tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá bán hàng qua mạng xã hội đạt hiệu quả cao là 45%  (tăng nhiều so với tỷ lệ 39% năm 2017), trong khi tỷ lệ này đối với bán hàng qua website là 32%và qua ứng dụng di động là 22%.  Nhiều doanh nghiệp lớn cũng đã tích cực sử dụng mạng xã hội để tiếp thị và chăm sóc khách hàng. Chẳng hạn, Lazada là sàn thương mại điện tử hàng đầu ở Việt Nam có trên 50.000 nhà bán hàng và đối tác. Hàng tháng, sàn này thu hút trên 100 triệu lượt người truy cập, tới tháng 10 năm 2018 có 27 triệu người theo dõi (follows) trên trang Facebook của công ty.

Một thống kê từ Báo cáo do Google, Temasek cùng với đối tác Bain & Company công bố cho thấy, Việt Nam cùng Indonesia là hai thị trường bứt phá trong xu hướng phát triển nền kinh tế số so với các quốc gia còn lại trong khu vực. Trong đó, nền kinh tế số tại Việt Nam đạt 12 tỷ USD trong 10 tháng đầu năm 2019 và sẽ bứt phá lên 43 tỷ USD vào năm 2025, bao gồm các lĩnh vực: TMĐT, du lịch trực tuyến, truyền thông trực tuyến, và gọi xe công nghệ. Đối với mảng TMĐT, thực tế cho thấy lợi nhuận TMĐT ở Việt Nam năm 2018 đạt 2,7 tỷ USD vẫn là một con số khiêm tốn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cụ thể, so với các quốc gia láng giềng ở Đông Nam Á, lợi nhuận Việt Nam xếp thứ 4 trong khu vực sau Indonesia, Thái Lan, Singapore. Nếu so với các nước phát triển, Việt Nam còn thua kém rất nhiều, chỉ bằng 0,4% thị trường Hoa Kỳ và 0,5% thị trường Trung Quốc. Các quốc gia dẫn đầu về chỉ số lợi nhuận TMĐT là: Hoa Kỳ với 636 tỉ USD, Trung Quốc với 504 tỉ USD và Nhật Bản với 104 tỉ USD, vương quốc Anh với 86 tỉ USD và vị trí thứ 5 là Cộng hòa Liên bang Đức với 70 tỉ USD.

Biểu đồ 1: Lợi nhuận thương mại điện tử ở Đông Nam Á năm 2018

ĐVT: tỷ đồng

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Nhiều chuyên gia cho rằng lợi nhuận TMĐT của Việt Nam được xem là chưa tương xứng với lượng người dùng tiếp cận Internet đông đảo. Theo số liệu từ Stalista, trung bình mỗi người dùng ở Việt Nam tiêu khoảng 54,89 USD/năm (khoảng 1.27 triệu VND) hay chỉ 106 nghìn VND/tháng để mua sắm online. Tỉ lệ người dùng tham gia giao dịch online đạt 52,5% và dự đoán đạt 55,9% năm 2022, ngược lại ở các nước phát triển con số này là khoảng hơn 70%. Năm 2018, có 49 triệu người dùng tham gia mua sắm trực tuyến, đạt 76% so với số lượng người dùng Internet. Có thể do thói quen mua sắm theo cách thức trực tiếp (đi chợ, siêu thị,…) cũng như tin tưởng về chất lượng sản phẩm, an toàn thông tin, chính sách đổi trả khi mua sắm trên mạng khiến nhiều người chưa thực sự “thoải mái” mua sắm online.

Tuy nhiên, sự bùng nổ của kinh tế số cũng đặt Việt Nam trước nhiều thách thức trong đó có vấn đề về mặt pháp lý, an toàn tấn công mạng về việc đảm bảo quyền riêng tư của người dùng. Việt Nam là một trong những quốc gia có chỉ số an toàn an ninh thông tin ở mức thấp, đặc biệt là ở khối doanh nghiệp. Việt Nam nằm trong top 10 các quốc gia hứng chịu các cuộc tấn công mạng và lây nhiễm mã độc nguy hiểm, xếp thứ 7 trong số lượng nạn nhân bị tấn công và xếp thứ hai trong các quốc gia bị nhiễm mã độc đào tiền ảo nhiều nhất. Theo thống kê của hãng bảo mật Kaspersky, năm 2017 có 35,01% nguời dùng Internet Việt Nam có khả năng bị tấn công mạng, xếp thứ 6 thế giới. Trung tâm ứng cứu sự cố máy tính Việt Nam (VNCERT) cho biết, có tổng cộng 10.000 vụ tấn công mạng nhằm vào Internet Việt Nam năm 2017, gây thất thoát 12,3 nghìn tỷ đồng. Trong năm 2018 theo thống kê hơn 1,6 triệu lượt máy tính tại Việt Nam bị mất dữ liệu. Cũng trong hai năm 2017 và 2018, số lượng lỗ hổng an ninh trong các phần mềm, ứng dụng được công bố tăng đột biến với hơn 15.700 lỗ hổng, gấp khoảng 2,5 lần những năm trước đó. Đặc biệt, nhiều lỗ hổng nghiêm trọng xuất hiện trên các phần mềm phổ biến như Adobe Flash Player, Microsoft Windows… và cả trong nhiều dòng CPU của Intel, Apple, AMD…

 Rõ ràng sự phát triển mạnh mẽ của Internet và công nghệ được kỳ vọng sẽ tạo ra một nền tảng hỗ trợ cho nền kinh tế số phát triển nhanh và đóng góp ngày càng lớn cho nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nền kinh tế số, Việt Nam gặp phải những rào cản nhất định như: khoảng cách, sự phát triển không đồng đều giữa các khu vực, sự khác biệt trong quy định pháp lý, các chính sách chưa có kết nối liên thông với nhau, sự yếu kém trong cơ sở hạ tầng, khả năng thích ứng và chuyển đổi công nghệ, kỹ năng phát triển kèm theo chưa tương ứng cũng như các vấn đề liên quan tới niềm tin, quyền bảo mật và sự minh bạch, trình độ nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghệ điện tử.

4.2 Bài học kinh nghiệm từ  Hàn Quốc và Trung Quốc

Một là, kinh nghiệm của các nước cho thấy nhất thiết phải có sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ phía Chính phủ với tư duy quản lí thông thoáng nhằm “cởi trói” cho các doanh nghiệp, đặc biệt là hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Bối cảnh hiện nay cho thấy nếu chính sách quản lý không cởi mở, thiếu linh hoạt, thông thoáng thì sẽ làm cho cả doanh nghiệp trong nước và nền kinh tế của quốc gia bị yếu thế trong cuộc cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài và các nền kinh tế trên thế giới. Đặc biệt, Việt Nam đang thiếu một kế hoạch quốc gia về chuyển đổi số nhằm tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế số, hình thành đồng bộ hạ tầng số quốc gia. Hành động trước hết là cần xây dựng và công bố quy hoạch ngành về ứng dụng công nghệ thông tin để làm cơ sở ban hành các chuẩn trao đổi thông tin giữa các cơ quan, đơn vị, qua đó tạo sự liên kết, đồng bộ trong quá trình đầu tư và phát triển hạ tầng dựa vào ứng dụng công nghệ thông tin.

Hai là, cả chính phủ và khu vực tư nhân đều cần phải nỗ lực đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số cũng như các giải pháp công nghệ số hiện đại để triển khai ứng dụng số kết nối thông minh, đẩy nhanh ứng dụng thanh toán không dùng tiền mặt, hiệu quả hóa chính phủ điện tử… Chính phủ phải là người đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý. Về nâng cấp hạ tầng số, Chính phủ và các doanh nghiệp cần khẩn trương chuẩn bị phương án triển khai dịch vụ 5G để có thể theo kịp xu hướng thế giới khi sắp tới sẽ có nhiều điện thoại thông minh tích hợp 5G với tốc độ cao gấp nhiều lần mạng 4G hiện nay. Công nghệ 5G sẽ tạo cơ sở hạ tầng tốt cho việc kết nối theo xu hướng Internet kết nối vạn vật, mở ra nhiều cơ hội kinh doanh rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Ba là, bên cạnh chú trọng nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số, nguồn nhân lực CNTT cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Chương trình đào tạo nhân lực CNTT cần hướng đến đẩy nhanh xã hội hóa giáo dục công nghệ thông tin, đặc biệt là cập nhật giáo trình đào tạo CNTT gắn với các xu thế công nghệ mới như Internet kết nối vạn vật (IoT), AI, công nghệ robot, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên tiếp cận lĩnh vực này càng sớm càng tốt, đẩy mạnh liên kết đào tạo và thực hành giữa các trường và khu vực doanh nghiệp trong ứng dụng CNTT.

Cuối cùng, Chính phủ cần có chính sách tăng cường nhận thức của người dân và doanh nghiệp về kinh tế số, các lợi ích và thách thức đi kèm, với các nội dung cụ thể theo từng ngành, lĩnh vực, đặc biệt thông qua các cơ quan, doanh nghiệp và trường học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Hà, N. H. (2017). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: thách thức và cơ hội cho phát triển. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Cải cách quốc gia để phát triển, Hà Nội.

- Henning, K. (2013). Recommendations for implementing the strategic initiative INDUSTRIE 4.0.

- Kagermann, H., Lukas, W.-D., & Wahlster, W. (2011). Industrie 4.0: Mit dem Internet der Dinge auf dem Weg zur 4. industriellen Revolution. VDI nachrichten, 13(1).

- Kagermann, H., Wahlster, W., & Helbig, J. (2013). Recommendations for implementing the strategic initiative Industrie 4.0: Final report of the Industrie 4.0 Working Group. Forschungsunion: Berlin, Germany.

- Kim, D. (2009). Korean experience of overcoming economic crisis through ICT development. UNESCAP Technical Paper.

- Thắng, N. T. (2017). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và yêu cầu đặt ra đối với sự phát triển khoa học – công nghệ của Việt Nam. Tạp chí Cộng sản Điện tử.

- Vyatkin, V., Salcic, Z., Roop, P. S., & Fitzgerald, J. (2007). Now that’s smart! IEEE Industrial Electronics Magazine, 1(4), 17-29.

- Wahlster, W. (2012). From industry 1.0 to industry 4.0: Towards the 4th industrial revolution. Paper presented at the Forum Business meets Research.

ThS. Nguyễn Đặng Hải Yến