Đánh giá sơ bộ tác động của Dịch nCoV đến kinh tế thế giới và Việt Nam
Nghiên cứu - Trao đổi - Ngày đăng : 16:39, 12/02/2020
Tác động đối với kinh tế thế giới và Trung Quốc
Theo báo cáo, còn khá sớm để đánh giá đầy đủ về tác động của dịch nCoV đối với kinh tế thế giới, nhưng theo một số nghiên cứu gần đây (Goldman Sachs, Moody’s, Coface, BNP Paribas Cadif, International SOS…v.v.), dự báo dịch bệnh này có thể khiến GDP toàn cầu giảm khoảng 0,3-0,7 điểm % năm 2020, tùy thuộc nhiều vào tình hình kiểm soát dịch bệnh (do Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới (sau Mỹ), chiếm tỷ trọng khoảng 17% GDP toàn cầu và đóng góp khoảng 33% tổng mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu). Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc có thể giảm từ 1-1,5 điểm % năm 2020 (xuống mức tăng trưởng khoảng 4,5-5% năm nay, trong khi Chính phủ Trung Quốc dự báo dịch nCoV khiến kinh tế Trung Quốc giảm 0,3 điểm %, xuống còn 5,8% năm 2020).
Tuy nhiên, không phải toàn bộ các nền kinh tế trên thế giới đều chịu ảnh hưởng tiêu cực từ dịch nCoV, tùy thuộc vào mức độ quan hệ kinh tế với Trung Quốc. Trong ngắn hạn, các nền kinh tế có thể sẽ phải đối mặt với các nguy cơ tăng trưởng chậm lại do sức cầu nội địa giảm, đối tác thương mại quan trọng (nhất là Trung Quốc) yếu đi, sản xuất giảm do nhu cầu tiêu dùng trong nước và từ Trung Quốc giảm, du lịch, giao thông vận tải (nhất là vận tải hàng không) giảm. Ngược lại, trong trung và dài hạn, các nước có thể vừa kiểm soát dịch bệnh chặt chẽ, vừa tăng cường điều chỉnh chuỗi cung ứng cũng như tìm kiếm các thị trường tiêu thụ thay thế. Như vậy, có thể thấy, trong bức tranh xám màu và nhiều rủi ro của dịch nCoV, vẫn xuất hiện một số cơ hội cho một số quốc gia trong phát triển kinh tế, nhất là dịch vụ y tế, bảo hiểm y tế, thương mại điện tử, giải trí trực tuyến và động lực thay đổi mô hình sản xuất-kinh doanh.
Đối với các nền kinh tế có quan hệ sản xuất và thương mại nhiều với Trung Quốc như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… việc hoạt động sản xuất tại Trung Quốc bị ngưng trệ do dịch nCoV sẽ gây tác động đáng kể. Theo đó, thiệt hại đối với các nền kinh tế này sẽ tương tự như tác động từ căng thẳng thương mại Mỹ - Trung gây ra nhưng sẽ khó bù đắp hơn do không có nguồn thu từ thuế và các biện pháp tài khóa.
Đối với các nền kinh tế có quan hệ thương mại và du lịch nhiều với Trung Quốc như: Hồng Kông, Việt Nam, Thái Lan, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, … tác động tiêu cực đến ngoại thương và du lịch là đáng kể.
Đối với lĩnh vực tài chính - ngân hàng thế giới, những hệ quả đầu tiên của dịch bệnh nCoV đã có thể nhìn thấy khá rõ trên thị trường chứng khoán (TTCK); trong khi các tài sản có tính an toàn cao như đồng USD, đồng Yên Nhật, trái phiếu Chính phủ Mỹ, vàng… có xu hướng tăng giá trong bối cảnh giới đầu tư lo ngại diễn biến phức tạp của dịch bệnh.
Đối với kinh tế Trung Quốc, là nước chịu tác động trực tiếp, nghiêm trọng và nặng nề nhất thế giới xét trên 8 lĩnh vực: (i) dịch vụ y tế và nguồn nhân lực, (ii) du lịch - lữ hành - khách sạn, dịch vụ giao thông - vận tải, (iv) bán lẻ (tiêu dùng giảm), (v) ngoại thương, (vi) đầu tư, (vii) chuỗi sản xuất - cung ứng, và (viii) dịch vụ tài chính - ngân hàng.
Theo nhóm tác giá báo cáo, tác động tiêu cực của dịch nCoV tới kinh tế - xã hội Trung Quốc diễn ra trên nhiều lĩnh vực, mức độ thiệt hại của nền kinh tế sẽ phụ thuộc rất nhiều vào thời gian kéo dài của dịch cũng như khả năng hồi phục của toàn bộ nền kinh tế. Đánh giá những thiệt hại ban đầu, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc trong Quý I/2020 có thể sụt giảm xuống mức 5% hoặc thấp hơn (theo dự báo của các chuyên gia kinh tế Chính phủ Trung Quốc, ngày 4/2/2020). Tương tự, ngân hàng ANZ dự báo tăng trưởng kinh tế quý 1 của Trung Quốc giảm xuống mức 5% (giảm 0,9 điểm % so với dự báo trước đó), cả năm 2020, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng khoảng 5,8%, trong khi một số tổ chức khác như Citibank, Mizuho, Moody’s dự báo mức tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc năm nay khoảng 5-5,5% (giảm 0,3-0,8 điểm % so với dự báo trước đó).
Tác động đối với nền kinh tế Việt Nam
Về các tác động của dịch nCoV đối với kinh tế - xã hội Việt Nam, báo cáo cho rằng,bên cạnh những tác động nhất định đến xã hội như gây xáo trộn cuộc sống, học sinh nghỉ học, tạm dừng hoặc thu hẹp các hoạt động lễ hội, tụ tập đông người; tác động của dịch nCoV đối với kinh tế Việt Nam được phân tích chủ yếu ở 8 lĩnh vực chịu ảnh hưởng nhiều: (i) dịch vụ y tế và nguồn nhân lực, (ii) du lịch - lữ hành - khách sạn, (iii) dịch vụ giao thông - vận tải, (iv) bán lẻ (tiêu dùng giảm), (v) ngoại thương, (vi) đầu tư, (vii) chuỗi sản xuất - cung ứng, và (viii) dịch vụ tài chính - ngân hàng.
Về chi phí y tế và nguồn nhân lực
Khi xảy ra dịch bệnh, đặc biệt khi Việt Nam chính thức công bố dịch bệnh ngày 1/2/2020; chi phí trực tiếp cho công tác phòng, chống, chữa trị chắc chắn sẽ rất lớn khi toàn bộ hệ thống chính trị, các bộ, ngành, tổ chức, doanh nghiệp và người dân… đều phải dành nguồn lực (cả về tài chính, con người, cơ sở vật chất và trang thiết bị) cho công tác này. Những chi phí chủ yếu gồm trang thiết bị y tế, đồ dùng vệ sinh – bảo vệ sức khỏe cá nhân, bảo hiểm y tế, dịch vụ phòng và chữa bệnh, cơ sở vật chất cách ly, chi phí tài chính cho nguồn nhân lực y tế tăng ca, truyền thông, giảm thuế cho việc nhập khẩu thiết bị y tế chống dịch…. Ngoài ra, chi phí vô hình khác chính là tâm lý lo âu, e sợ, nếu chúng ta không làm tốt khâu thông tin, tuyên truyền một cách chính xác và phù hợp. Nhóm tác giả báo cáo ước tính chi phí y tế và các hoạt động cho công tác phòng, chống dịch bệnh có thể lên đến hàng ngàn tỷ đồng.
Với nguồn nhân lực, với việc các tổ chức, doanh nghiệp sử dụng nhiều hình thức làm việc linh hoạt (làm việc tại nhà, họp và đào tạo trực tuyến, làm bù ngoài giờ…, nên mức độ ảnh hưởng chưa đáng kể. Tuy nhiên, một số chuyên gia và công nhân nước ngoài (nhất là người Trung Quốc) đang làm việc tại Việt Nam vẫn chưa thể quay lại làm việc hoặc bị cách ly đã tác động không nhỏ đến hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam.
Tác động đến lĩnh vực du lịch - lữ hành - khách sạn
Lĩnh vực du lịch là ngành chịu tác động tiêu cực của dịch nCoV một cách trực tiếp và rõ nét nhất, cả về du lịch quốc tế (khách Trung Quốc đến Việt Nam và khách Việt Nam du lịch Trung Quốc, khách du lịch châu Á), cũng như du lịch nội địa.
Về du lịch quốc tế, thu từ khách du lịch nước ngoài chiếm khoảng 6,1% GDP Việt Nam (2019); trong đó khách du lịch Trung Quốc đóng góp khoảng 32,2%. Năm 2019, lượng khách Trung Quốc thăm Việt Nam đạt 5,8 triệu lượt khách, chiếm tới 40,36% tổng lượng khách quốc tế của Việt Nam. Trong tháng 1/2020, ngành du lịch Việt Nam chưa chịu tác động từ dịch nCoV và vẫn tăng trưởng khả quan; với lượng khách Trung Quốc đạt 644,7 nghìn lượt (chiếm 33% tổng lượng khách quốc tế), tăng hơn 15% so với tháng 12/2019 và tăng 72,6% so với cùng kỳ 2019. Tuy nhiên, dự kiến lượng khách Trung Quốc và một số nước châu Á du lịch Việt Nam và du khách Việt Nam sang các nước trong khu vực sẽ giảm mạnh từ tháng 2/2020 khi từ ngày 28/01/2020, Chính phủ Trung Quốc và nhiều nước đã đình chỉ nhiều hoạt động du lịch và các tour du lịch nước ngoài của công dân nước mình cũng như những lo ngại, hạn chế du lịch của bản thân người dân và khách du lịch đối với dịch nCoV. Vì vậy, bên cạnh sự suy giảm mạnh của lượng khách Trung Quốc, dự báo lượng khách quốc tế đến Việt Nam cũng sẽ giảm từ tháng 2/2020 và có thể đến hết quý II/2020.
Ở chiều ngược lại, lượng khách Việt Nam du lịch Trung Quốc đạt khoảng 6,5 triệu lượt trong số gần 10 triệu người Việt du lịch nước ngoài (trong đó, khoảng 80% đi du lịch châu Á – theo ASEAN Travel). Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn sự lây lan dịch nCoV của Trung Quốc, Việt Nam và các nước châu Á sẽ ảnh hưởng không chỉ tới doanh thu du lịch từ khách Trung Quốc và châu Á mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động doanh nghiệp du lịch lữ hành của Việt Nam (đặc biệt với các doanh nghiệp có thị trường trọng tâm là Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản)… do bị hoãn, hủy hoặc không đăng ký thêm tour và khách du lịch sang các nước này. Theo đánh giá sơ bộ của Ngân hàng ANZ về tác động của dịch bệnh, Việt Nam là một trong những nước trong khu vực chịu tác động tiêu cực về du lịch, khiến GDP có thể giảm 0,37 điểm % trong trường hợp lượng khách du lịch Trung Quốc đến Việt Nam giảm 75% trong 3 tháng tới.
Ngoài doanh thu từ du khách nước ngoài bị ảnh hưởng, nguồn thu từ du khách trong nước cũng sẽ sụt giảm mạnh, khi Chính phủ có Chỉ thị tạm dừng và hạn chế nhiều hoạt động lễ hội (khoảng 8.000 lễ hội/năm, theo Bộ VH-TT-DL), các sự kiện tập trung đông người. Do đó, dịch nCoV sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến một số ngành nghề phục vụ lễ hội (ăn uống, vận tải, du lịch, lữ hành…v.v.), từ đó ảnh hưởng nhất định tới lĩnh vực du lịch trong nước nói riêng và nền kinh tế nói chung trong ngắn hạn.
Tác động đến lĩnh vực giao thông vận tải
Cùng với ngành du lịch, ngành giao thông vận tải (nhất là nhóm các nhà cung cấp dịch vụ vận tải liên quan đến ngành du lịch) sẽ chịu tác động mạnh bởi dịch bệnh nCoV. Xét theo loại hình vận tải, vận tải hàng không chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi lượng khách quốc tế sử dụng hàng không của Việt Nam chiếm tới hơn 79,8% tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam (khách Trung Quốc đến Việt Nam bằng đường hàng không chiếm 70%) năm 2019 (theo Tổng cục Du lịch). Ngoài ra, một số loại hình giao thông vận tải khác như vận tải đường bộ, đường sắt… cũng chịu tác động tiêu cực khi hoạt động thương mại và du lịch giảm sút (như đã phân tích ở trên), các doanh nghiệp, người dân hạn chế đi lại, giao thương, du hành, lễ hội. Bên cạnh đó, người dân cũng có tâm lý e ngại, hạn chế sử dụng các phương tiện công cộng như xe khách, xe bus, tàu điện… nhằm phòng tránh lây lan dịch bệnh cũng làm ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của các doanh nghiệp vận tải, lữ hành. Đối với ngành hàng không, đây là ngành chịu tác động tiêu cực trực tiếp và rõ nét nhất, dự báo sẽ khiến doanh thu và lợi nhuận của ngành giảm mạnh trong quý I, quý II và cả năm 2020 - tùy theo diễn biến của dịch bệnh.
Tác động đến ngoại thương
Trung Quốc là một trong những đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt Nam, là thị trường nhập khẩu lớn nhất và là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam. Theo Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch XNK của hai nước năm 2019 đạt 116,87 tỷ USD;. Tuy nhiên, thương mại hai nước Việt - Trung quý I, quý II và cả năm 2020 sẽ bị ảnh hưởng khi từ 29/1/2020, Trung Quốc thực hiện tạm dừng thông quan, tăng cường quản lý và siết chặt các cửa khẩu như một biện pháp ngăn chặn sự lan rộng của dịch nCoV. Hoạt động xuất khẩu sang Trung Quốc, đặc biệt là hàng nông - lâm – thủy sản… sẽ còn khó khăn.
Theo đánh giá sơ bộ của Ngân hàng ANZ, Việt Nam là một trong những nước khu vực châu Á chịu nhiều tác động tiêu cực về xuất khẩu sang Trung Quốc (chỉ sau Đài Loan), với mức thiệt hại ước tính khoảng 0,44 điểm %GDP khi xuất khẩu sang Trung Quốc giảm 20% trong 3 tháng tới.
Ngược lại, trong cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc, rất nhiều hàng hóa là nguyên, nhiên vật liệu đầu vào cho một số ngành sản xuất, xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như hàng dệt may, da giày, Trung Quốc cũng là đối tác lớn nhất cung cấp hóa chất và sản phẩm từ hóa chất; chất dẻo nguyên liệu và sản phẩm từ chất dẻo cho Việt Nam. Điều này cho thấy một số ngành sản xuất, xuất khẩu chủ lực của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào nguồn nguyên liệu đầu vào từ Trung Quốc, sẽ chịu tác động tiêu cực (nhất là trong quý I và quý II/2020) do thiếu nguyên liệu đầu vào, gián đoạn chuỗi cung ứng (trong khi tồn kho và nguồn thay thế còn hạn chế).
Tác động đối với hoạt động bán lẻ (tiêu dùng cá nhân) trong nước
Dự báo dịch bệnh nCoV sẽ có tác động hai chiều, tuy nhiên tác động tiêu cực nhiều hơn. Thứ nhất, dịch bệnh sẽ tác động đến tâm lý của người dân, theo đó người dân sẽ có xu hướng phòng thủ, tiết kiệm, hạn chế chi tiêu, làm ảnh hưởng đến sức mua, khiến tiêu dùng cá nhân (tương đương 74% GDP của Việt Nam năm 2018) dự báo sẽ giảm trong ngắn hạn. Thứ hai, dịch bệnh sẽ làm ảnh hưởng đến tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình khi các lễ, hội, tụ tập bị dừng tổ chức hoặc thu hẹp quy mô, đặc biệt là sau dịp Tết; trong đó có nhiều lễ hội thu hút hàng triệu khách du lịch. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến một số ngành nghề dịch vụ, kinh doanh phục vụ trực tiếp lễ hội (ăn uống, vận tải, du lịch, lữ hành…v.v), từ đó ảnh hưởng đến lĩnh vực bán lẻ và tiêu dùng dịch vụ.
Tác động đến đầu tư nước ngoài
Tác động đến lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cần nhìn nhận ở hai khía cạnh. Thứ nhất, đối với các dự án đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam; Trung Quốc hiện là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 7 tại Việt Nam với 2.875 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 16,3 tỷ USD, chiếm 4,4% tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam. Tại Việt Nam hiện nay, nhiều dự án, doanh nghiệp do Trung Quốc làm chủ thầu hoặc chủ đầu tư sử dụng số lượng lớn chuyên gia và lao động Trung Quốc tham gia vào nhiều khâu quan trọng trong sản xuất và điều hành dự án, doanh nghiệp. Việc những lao động này đang bị hạn chế trở lại Việt Nam sau kỳ nghỉ Tết do các biện pháp phòng lây lan dịch nCoV có tác động trực tiếp đến các dự án, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này, cũng như thu nhập và đời sống của người lao động trong dự án, doanh nghiệp liên quan.
Thứ hai, dịch nCoV cũng có thể mang lại cơ hội để Việt Nam đón nhận thêm các dự án FDI mới bởi quan ngại dịch bệnh sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư xem xét dịch chuyển dòng vốn, dự án FDI từ Trung Quốc và lãnh thổ liên quan (Hồng Kông, Macau…), vốn dĩ đã dịch chuyển thời gian qua cũng như bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ - Trung (mặc dù Việt Nam bị đánh giá là một trong những nước dễ bị tổn thương, chịu nhiều rủi ro lây lan dịch bệnh nCoV, nhưng quốc tế đánh giá cao sự chủ động và quyết liệt của Việt Nam trong phòng, chống bệnh này, và Chính phủ tiếp tục quyết tâm cải thiện môi trường kinh doanh). Tuy nhiên, tác động tích cực này sẽ chủ yếu xảy ra trong trung hạn. Tính chung lại, thu hút FDI năm 2020 vẫn có thể tăng (khoảng 5%), thấp hơn 2,2 điểm % so với năm 2019.
Tác động đến các ngành sản xuất theo chuỗi cung ứng
Dịch nCoV tác động đến các ngành sản xuất theo chuỗi cung ứng tại Việt Nam ở hai khía cạnh. Một là, Việt Nam đang hội nhập sâu rộng, nhiều ngành sản xuất theo mô hình chuỗi cung ứng như điện thoại, điện tử, máy tính, dệt may, da giày, sản xuất – chế biến nông sản, ô tô - xe máy, sắt - thép, lọc hóa dầu, bán lẻ…(đều là những ngành xuất khẩu chủ lực, tạo việc nhiều làm của Việt Nam), đều đang bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh này, do thiếu nguồn cung đầu vào cũng như xuất khẩu đầu ra bị nghẽn, bị giảm. Hai là, nhiều doanh nghiệp FDI tại Việt Nam thuộc các ngành nêu trên cũng bị ảnh hưởng tương tự. Một số doanh nghiệp FDI lớn như Samsung, LG, Formosa, Apple, Toyota, Honda…. gặp phải 2 khó khăn lớn: (i) thiếu nguồn cung đầu vào nhập từ Trung Quốc, và (ii) thiếu lực lượng lao động do lệnh phong tỏa, cách ly hoặc hạn chế đi lại đối với nhân công, chuyên gia từ Trung Quốc.
Những tác động này là khá lớn, ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu, việc làm và tiêu dùng của Việt Nam.
Tác động đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng
Tại Việt Nam, những biến động đầu tiên đã được ghi nhận trên TTCK và thị trường ngoại hối. Lo ngại ảnh hưởng của dịch bệnh cộng với yếu tố tâm lý sau kỳ nghỉ Tết, thị trường chứng khoán những ngày cuối tháng 1 và đầu tháng 2 diễn biến trầm lắng, tâm trạng chờ đợi bao phủ toàn thị trường. Tỷ giá USD/VND tiếp tục tăng (tính đến hết ngày 10/2/2020 tỷ giá trung tâm tăng 0,24%, tỷ giá giao dịch tăng 0,3% so với đầu năm).
Đối với TTCK, các nhà đầu tư đã có những lo ngại đối với dịch nCoV tác động tới kinh tế Việt Nam, khi VNIndex sụt giảm mạnh trong 2 phiên giao dịch đầu tiên sau Tết (ngày 30 và 31/1), giảm 5,53% so với trước thời điểm nghỉ Tết (cũng là quãng thời gian Chính phủ và các cơ chức năng đưa ra nhiều biện pháp quyết liệt ứng phó với dịch nCoV). Trong tuần từ 3-7/2/2020, VNIndex tăng giảm đan xen, với biên độ hẹp hơn, mặc dù có lúc sụt giảm mạnh qua mốc 900 điểm (trong phiên ngày 3/2). Đến hết ngày 10/2/2020, VNIndex đóng cửa ở mức 930,73 điểm, giảm 3% so với mức đầu năm 2020 (960 điểm).
Riêng tác động của dịch nCoV đến hệ thống ngân hàng chủ yếu thông qua tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, khách hàng và bản thân ngân hàng. Theo đó, dự báo dịch bệnh nCoV sẽ tác động ở 3 khía cạnh quan trọng: (i) cầu tín dụng giảm, do nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp, hộ gia đình thấp hơn, đặc biệt là trong quý 1 và quý 2; (ii) tiềm ẩn nợ xấu tăng, khi các doanh nghiệp, hộ gia đình chịu tác động tiêu cực từ dịch bệnh, dẫn đến hoạt động sản xuất – kinh doanh gặp khó khăn; (iii) nhu cầu giao dịch qua ngân hàng số, thanh toán không dùng tiền mặt tăng do một số khách hàng ngại tiếp xúc. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) có phương án tổ chức kinh doanh phù hợp, không ảnh hưởng đến khách hàng, xem xét giảm lãi suất, giãn nợ cho các doanh nghiệp, hộ gia đình chịu nhiều ảnh hưởng, thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt…. Các TCTD cũng đang chủ động, tích cực thực hiện và một số TCTD đã công bố giảm lãi suất hoặc có các gói hỗ trợ tín dụng cũng như tư vấn, thông tin đến khách hàng về dịch bệnh và phòng ngừa.
Kịch bản tác động của dịch nCoV tới kinh tế Việt Nam
Để đánh giá tác động đối với nền kinh tế Việt Nam, TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả đã đưa ra 3 kịch bản (cơ sở, tích cực và tiêu cực). Việc đánh giá tác động theo tổng cầu, dựa trên 6 cơ sở chính như sau: (i) dựa trên kinh nghiệm, đánh giá tác động từ trường hợp tương tự, như dịch SARS (2003); (ii) rủi ro và nguy cơ sụt giảm tăng trưởng của kinh tế thế giới và đặc biệt là của kinh tế Trung Quốc; (iii) đánh giá sự phụ thuộc và tác động trong quan hệ kinh tế (thương mại, đầu tư, du lịch…) giữa Việt Nam và Trung Quốc; (iv) phân tích thực tiễn cơ cấu ngành và đóng góp vào GDP của một số ngành (lĩnh vực) chịu nhiều tác động; (v) tính toán trên cơ sở ngành nghề có số liệu và không bị trùng lặp (thí dụ, khối FDI có bị ảnh hưởng, nhưng sự ảnh hưởng này đã được đánh giá theo các lĩnh vực như XNK, bán lẻ, vận tải hàng không…v.v., nên không thể hiện trong kịch bản); và (vi) tham khảo kinh nghiệm, mô hình đánh giá, dự báo của một số tổ chức nghiên cứu trong nước và quốc tế…. Mô hình đánh giá được thực hiện với hai giả định chính: (i) những biến động khác (ngành nghề, lĩnh vực khác) vẫn duy trì đà tăng trưởng như thường lệ; và (ii) Chính phủ chưa có động thái quyết liệt, chưa có gói kích thích kinh tế hay chưa điều chỉnh chính sách kinh tế (nhất là chính sách tiền tệ, tài khóa, công thương và giá cả…).
Kịch bản cơ sở
Theo đánh giá của Nhóm Nghiên cứu, đây là kịch bản có khả năng xảy ra cao nhất. Do đó, các giải pháp, biện pháp ứng phó được xây dựng chủ yếu trên kịch bản cơ sở này.
Theo kịch bản này, dịch bệnh tiếp tục diễn biến như trong thời gian qua, nhưng được kiểm soát chặt, không để lây lan sang các vùng mới, nhưng số ca được phát hiện nhiễm nCoV tăng trong vùng đã có dịch hoặc có người nhiễm; các biện pháp ngăn chặn dịch được kéo dài cho tới khi thời tiết ấm lên, không còn là môi trường phù hợp cho sự phát triển của bệnh; các hoạt động thương mại, du lịch, đầu tư dần phục hồi từ nửa cuối quý II/2020. Khi đó, tác động của dịch nCoV đối với các lĩnh vực và nền kinh tế Việt Nam được nhận định như sau.
Đối với lĩnh vực du lịch, lượng khách và doanh thu khách quốc tế dự báo sẽ giảm mạnh trong quý 1 (đến 90%), giảm ít hơn nhưng vẫn ở mức sâu trong quý 2 (70%), chủ yếu do sự sụt giảm mạnh của khách Trung Quốc và châu Á, song có thể phục hồi dần từ quý 3/2020 và bù đắp từ các nguồn khách khác. Lượng khách và doanh thu khách quốc tế cả năm giảm khoảng 20-22% so với năm 2019. Theo đó, sự sụt giảm của lĩnh vực du lịch quốc tế khiến GDP của Việt Nam giảm 5,49 điểm % trong quý 1, giảm 4,27 điểm % trong quý 2 so với cùng kỳ năm 2019 và giảm 1,22 điểm % cả năm 2020.
Đối với lĩnh vực ngoại thương, trong quý 1, tổng kim ngạch XNK dự báo giảm 19-25% so với cùng kỳ năm trước (trong đó, xuất khẩu giảm 19-20% và nhập khẩu giảm sâu hơn, khoảng 25% do sức cầu giảm nhẹ cũng như các tác động gián đoạn nêu trên); theo đó, cán cân thương mại thặng dư sẽ hỗ trợ GDP quý 1 tăng thêm 4,48 điểm % so với năm 2019. Trong quý 2, GDP tăng thêm 3,73 điểm % nhờ tác động từ cán cân thương mại tiếp tục thặng dư (với mức giảm xuất khẩu khoảng 15-16% và nhập khẩu giảm khoảng 20%). Nửa cuối năm, dự báo XNK sẽ phục hồi dần theo diễn biến tích cực của dịch bệnh. Tính chung cả năm, xuất khẩu giảm khoảng 10%, nhập khẩu giảm khoảng 11%, cân cân thương mại thặng dư, giúp GDP tăng thêm 0,58 điểm % so với năm 2019….
Nguồn: Tính toán của Nhóm Nghiên cứu Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV |
Đối với lĩnh vực bán lẻ (tiêu dùng cá nhân), trong quý I, dự kiến sẽ có những tác động nhất định do tâm lý e ngại về dịch nCoV cũng như việc các hoạt động văn hóa - xã hội, du lịch, lễ hội bị hạn chế, song do việc dịch vẫn đang được kiểm soát tốt, mọi hoạt động kinh tế - xã hội chưa bị ảnh hưởng quá lớn (chưa dẫn tới thay đổi thói quen tiêu dùng), do vậy mức giảm của lĩnh vực này sẽ không đáng kể (chỉ khoảng 1%), khiến GDP giảm 0,13 điểm %. Trong quý II, dịch bệnh vẫn được kiểm soát tốt dù việc có thể chưa sản xuất được vaccine hoặc thuốc điều trị, đồng thời bệnh không lây lan rộng hơn tại Việt Nam, các biện pháp phòng ngừa dịch vẫn được áp dụng song có nới lỏng dần và lĩnh vực này có mức giảm nhẹ 0,5%, làm GDP giảm 0,07 điểm %. Dự báo, nửa cuối năm, các điều kiện thời tiết thay đổi, vaccine và thuốc điều trị sẽ sớm được sản xuất, dịch bệnh được kiểm soát hoàn toàn; từ đó, góp phần giúp cho lĩnh vực bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng hồi phục dần, cả năm giảm nhẹ 0,5% và khiến GDP giảm 0,07 điểm %.
Lĩnh vực giao thông - vận tải, với đà giảm của du lịch cùng với tâm lý ngại di chuyển và tụ tập động người, dự báo ngành vận tải hàng không sẽ giảm khá mạnh (khoảng 30%) trong quý I so với cùng kỳ năm 2019, khiến GDP giảm 0,03 điểm %. Trong quý II, vận tải hàng không vẫn còn nhiều khó khăn và giảm khoảng 25%, khiến GDP giảm 0,025 điểm %. Nửa cuối năm, dự báo ngành này sẽ phục hồi; nhưng tính chung cả năm 2020, vận tải hàng không có thể vẫn giảm khoảng 20% và khiến GDP giảm 0,02 điểm %.
Đối với lĩnh vực tài chính - ngân hàng, trong quý I, dịch nCoV làm giảm nhu cầu tiêu dùng, giảm giao dịch ngoại thương, hoạt động sản xuất - kinh doanh của một số doanh nghiệp và hộ gia đình (nhất là trong các lĩnh vực nêu trên) bị suy giảm,… từ đó làm giảm các hoạt động, giao dịch tài chính - ngân hàng (khoảng 1%) và khiến GDP giảm 0,05 điểm%. Từ quý II đến cuối năm, các tác động từ dịch nCoV với lĩnh vực này sẽ tăng dần (do có độ trễ), khiến GDP giảm 0,08 điểm % trong quý II và GDP giảm 0,11 điểm % cả năm. Với kịch bản cơ sở này, GDP năm 2020 Việt Nam giảm khoảng 0,83 điểm %; trong đó, GDP quý I giảm 1,23 điểm % và GDP quý II giảm 0,71 điểm %.
Kịch bản tích cực
Dịch bệnh được kiểm soát chặt chẽ, không lây lan rộng, các biện pháp quyết liệt ngăn chặn dịch bệnh (như đóng cửa khẩu, hạn chế du lịch, thương mại,…) sớm được gỡ bỏ và các hoạt động trở lại bình thường từ đầu quý II/2020. Tương tự như đánh giá tại kịch bản cơ sở, dịch bệnh nCoV dự báo sẽ khiến du lịch quốc tế giảm đến 90% trong quý I, giảm 50% quý II và cả năm giảm khoảng 15% so với cùng kỳ năm 2019; xuất khẩu quý I giảm 19-20%, quý II giảm 12-13% và cả năm giảm 7%; tiêu dùng cá nhân quý I giảm 1%, quý II giảm 0,5% và cả năm giảm nhẹ 0,1%. Trong khi đó, dịch vụ vận tải hàng không quý I giảm 25%, quý II giảm 15% và cả năm giảm 15%; và dịch vụ tài chính-ngân hàng-bảo hiểm quý I và quý II giảm nhẹ 1%, cả năm giảm 0,5%. Với diễn biến như vậy,
GDP Việt Nam quý I có thể giảm khoảng 1,22 điểm %; GDP quý II giảm 0,39 điểm %, và GDP cả năm giảm khoảng 0,32 điểm %.Kịch bản tiêu cực
Dịch bệnh bùng phát, lây lan mạnh thành đại dịch toàn cầu cũng như tại Việt Nam, các biện pháp ngăn chặn dịch bệnh không có hiệu quả, dẫn đến hệ lụy rất xấu, thậm chí làm kiệt quệ ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ nước ta. Theo đó, dịch bệnh nCoV dự báo sẽ khiến du lịch quốc tế giảm đến 90% trong quý I, giảm 70% quý II và cả năm giảm khoảng 55% so với cùng kỳ năm 2019; xuất khẩu quý I giảm 20-25%, quý II giảm 20% và cả năm giảm 21-23,5%; tiêu dùng cá nhân quý I giảm 1%, quý II giảm 0,5% và cả năm giảm mạnh 5%. Trong khi đó, dịch vụ vận tải hàng không quý I giảm 40%, quý II giảm 30% và cả năm giảm 30%; và dịch vụ tài chính - ngân hàng - bảo hiểm quý I và quý II giảm nhẹ 1% và 1,5%, cả năm giảm 0,5%. Theo kịch bản này, do dịch bệnh, GDP quý 1 có thể giảm 1,24 điểm %, GDP quý II giảm 1,46 điểm % và GDP cả năm giảm khoảng 2,71 điểm %.
Giải pháp ứng phó
Giải pháp ngắn hạn
Về ngắn hạn, nhóm tác giả cho rằng chưa đặt vấn đề điều chỉnh các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 tại thời điểm này và chưa cần thiết phải đưa ra gói kích thích kinh tế (tuy nhiên, cũng cần tính đến gói này đề phòng trường hợp xấu nhất xảy ra, trong đó cần đặc biệt lưu ý về đối tượng áp dụng hỗ trợ, liều lượng và phương thức hỗ trợ). Trong ngắn hạn, nhóm nghiên cứu đề xuất 6 giải pháp chính như sau:
- Tập trung, quyết liệt, nghiêm túc thực hiện các chỉ thị, chỉ đạo của Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ, Bộ y tế và các cơ quan chức năng, địa phương;
- Từng bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp cần chủ động, trách nhiệm, theo dõi, đánh giá và có biện pháp phù hợp;
- Chú trọng nâng cao hiệu quả phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương và hợp tác quốc tế;
- Truyền thông, minh bạch thông tin chuẩn xác, kịp thời và mang tính xây dựng, phù hợp là vô cùng quan trọng; xử lý nghiêm minh đối với những trường hợp vi phạm, cố ý tung tin đồn thất thiệt;
- Chưa tính đến việc điều chỉnh các chỉ tiêu phát triển KT-XH năm nay, nhưng cần quyết liệt tháo gỡ các điểm nghẽn, nút thắt đầu tư công, tiếp tục cải thiện mạnh mẽ và thực chất môi trường kinh doanh;
- Có phương án hỗ trợ doanh nghiệp, hộ gia đình chịu nhiều tác động tiêu cực từ dịch bệnh; có tính đến phương án phải nới lỏng nhẹ tiền tệ và tài khóa và chưa tính đến gói kích thích kinh tế (kinh nghiệm năm 2009 cho thấy tính hiệu quả của việc dùng gói này không cao).
Giải pháp trung và dài hạn
Nhóm nghiên cứu đề xuất 7 giải pháp trung - dài hạn như sau:
- Việc nghiên cứu, lập và thực thi chiến lược đa dạng hóa thị trường và đối tác là cấp bách, nhằm hạn chế tối đa việc phụ thuộc quá nhiều vào một hoặc một vài thị trường hay đối tác, cũng là chiến lược phân tán rủi ro theo thông lệ;
- Đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế (nhất là ba trụ cột đã xác định); tập trung nhiều hơn vào các yếu tố chất lượng, sáng tạo, bao trùm và bền vững; trong đó việc làm chủ một số yếu tố đầu vào vừa là hạn chế nhập khẩu, vừa tăng tính chủ động trong nhiều tình huống khác nhau, vừa tạo việc làm và tăng khả năng kết nối giữa các khối doanh nghiệp. Cùng với đó, đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp một cách hiệu quả, lâu dài gắn kết chặt chẽ với phát triển nông thôn mới, hợp tác xã kiểu mới và quá trình đô thị hóa là rất quan trọng;
- Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế đối với các cú sốc từ bên ngoài nhờ nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia và doanh nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất và phát triển thị trường tiêu thụ trong nước; tăng yêu cầu, quy định về an toàn thực phẩm, quy định xuất xứ đối với hàng hóa (đặc biệt là hàng tiêu dùng, nông thủy sản,…) nhập khẩu vào Việt Nam;
- Cùng với quá trình khắc phục tác động tiêu cực từ dịch bệnh; cần có chiến lược dài hạn về cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư – kinh doanh, để từ đó có kế hoạch, lộ trình thực hiện từng năm (thay vì làm từng năm như hiện nay);
- Tăng cường đầu tư cho y tế dự phòng, nhất là về nguồn nhân lực, nghiên cứu và phát triển (R&D), gồm cả nghiên cứu sản xuất thuốc, dược phẩm, dược liệu và vaccine phòng và thuốc đặc trị bệnh nCoV phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam;
- Cần có đánh giá, báo cáo tổng hợp, rút kinh nghiệm về dịch bệnh; thống kê thiệt hại, chi phí, tác động…v.v. đối với kinh tế - xã hội để bố trí nguồn bù đắp; rút ra bài học kinh nghiệm, từ đó làm cơ sở, nguồn tham khảo đối với những trường hợp tương tự có thể xảy ra trong tương lai. Đồng thời, những bài học hay, cách làm hay, hiệu quả trong quá trình phòng, chống dịch bệnh cần được lưu lại dưới dạng qui trình, sổ tay để thống nhất áp dụng sau này;
- Quan trọng hơn cả là làm sao để hạn chế rủi ro dịch bệnh. Theo đó, bảo vệ môi trường, động vật quý hiếm, giáo dục giữ gìn vệ sinh cá nhân, rèn luyện thân thể, tạo nếp sống lành mạnh cần đưa thành quốc sách, ưu tiên hàng đầu, thay vì chữa chạy.