Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV cập nhật 3 kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020
Nghiên cứu - Trao đổi - Ngày đăng : 15:23, 10/04/2020
Tại Báo cáo cập nhật được công bố ngày 9/4, TS.Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV nhận định tác động của đại dịch Covid-19 đối với kinh tế - xã hội Việt Nam đã rõ nét hơn, nghiêm trọng hơn nhiều so với các dự báo ban đầu... Tuỳ theo diễn biến và khả năng dịch bệnh được kiểm soát, tăng trưởng GDP năm nay có thể từ 4,07% đến 5,6%.
Những diễn biến mới nhất tác động đến kinh tế Việt Nam năm 2020
Ngày 11/2/2020, Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đã thực hiện Báo cáo đánh giá sơ bộ tác động của dịch bệnh Covid-19 đến kinh tế thế giới và Việt Nam, với 3 kịch bản, trong đó có đánh giá sơ bộ và theo kịch bản cơ sở, tăng trưởng GDP Việt Nam cả năm 2020 giảm khoảng 0,83 điểm % (tương đương với tăng trưởng khoảng 6%).
Tuy nhiên, dịch Covid-19 đã bùng phát, lây lan và trở thành đại dịch toàn cầu; đồng thời, số ca nhiễm và số người bị cách ly tại Việt Nam cũng tăng mạnh. Tính đến hết ngày 9/4, Việt Nam có 255 ca nhiễm (204 ca là người Việt Nam), 128 ca khỏi bệnh; cách ly gần 80 nghìn người. Đến nay, WHO và cộng đồng quốc tế đánh giá rất tích cực về các biện pháp phòng, chống và kiểm soát dịch Covid-19 của Việt Nam về những thành công ban đầu. Tuy nhiên, tình hình dịch bệnh còn diễn biến phức tạp và Việt Nam không thể chủ quan, lơ là, nhưng cũng không phản ứng thái quá; giải bài toán tối ưu lúc này không phải là dễ.
Do đó, tại báo cáo đánh giá cập nhật này, TS.Cấn Văn Lực và các cộng sự nhận định tác động của đại dịch Covid- 19 đối với kinh tế - xã hội Việt Nam đã rõ nét hơn, nghiêm trọng hơn nhiều so với các dự báo ban đầu. Tuy nhiên, bên cạnh một số ngành, lĩnh vực thuộc khu vực sản xuất và dịch vụ bị ảnh hưởng nghiêm trọng và bị suy giảm sâu, nhưng một số ngành, lĩnh vực sẽ có sự cải thiện đáng kể nhờ giao dịch trực tuyến và đẩy mạnh đầu tư công.
Báo cáo tiếp tục đánh giá, dự báo tác động của đại dịch Covid-19 đối với kinh tế Việt Nam từ phía tổng cầu. Tuy nhiên, Nhóm nghiên cứu có bổ sung 4 thành tố khác vào mô hình lượng hóa, gồm: du lịch trong nước (trong lĩnh vực du lịch); dịch vụ khác (như xây dựng, kinh doanh bất động sản, thông tin - truyền thông…); chi tiêu công khi Chính phủ thực hiện nhiều gói hỗ trợ, tăng chi tiêu công cho các dịch vụ thiết yếu; và đầu tư công và đầu tư tư nhân.
Có đến 8 nhóm ngành, lĩnh vực chính được tính toán, bao gồm: Dịch vụ du lịch (lữ hành, lưu trú, ăn uống); Tiêu dùng cá nhân (bán lẻ); Chi tiêu công (bao gồm chi y tế, chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội,…); Vận tải - kho bãi; Dịch vụ tài chính - ngân hàng; Các dịch vụ khác; Đầu tư (đầu tư Nhà nước, đầu tư tư nhân và FDI); Xuất - Nhập khẩu.
Báo cáo lần này cũng đưa ra 3 kịch bản (cơ sở, tích cực và tiêu cực) đánh giá tác động của đại dịch Covid-19 đối với kinh tế Việt Nam năm 2020, cụ thể:
Dự báo tác động của dịch Covid-19 tới kinh tế Việt Nam 2020 theo 3 kịch bản (cập nhật ngày 9/4/2020)
Ngành, lĩnh vực chịu tác động |
Thay đổi (so với cùng kỳ năm 2019) |
Dự báo Mức độ tác động
(% thay đổi so với không có dịch bệnh Covid-19) |
||||||||
Kịch bản Cơ sở |
Kịch bản Tích cực |
Kịch bản Tiêu cực |
||||||||
|
Quý 1 |
Q2 |
6T |
2020 |
Q2 |
6T |
2020 |
Q2 |
6T |
2020 |
(%) |
(%) |
(%) |
(%) |
(%) |
(%) |
(%) |
(%) |
(%) |
(%) |
|
Du lịch (lữ hành - lưu trú - ăn uống) |
-11,04 |
-70,00 |
-55,00 |
-35 |
-60,00 |
-40,00 |
-30,00 |
-80,00 |
-60,00 |
-60,00 |
Tiêu dùng cá nhân (bán lẻ) |
+1,16 |
-4,00 |
-5,50 |
-3 |
-4,00 |
-3,00 |
-2,00 |
-6,00 |
-5,00 |
-4,00 |
Chi tiêu công |
+9,30 |
1,50 |
1,80 |
0,5 |
1,50 |
1,50 |
1,00 |
3,00 |
3,00 |
2,00 |
Vận tải - kho bãi |
-0,90 |
-5,00 |
-4,00 |
-3 |
-2,00 |
-1,50 |
-1,00 |
-10,00 |
-10,00 |
-10,00 |
DV tài chính - ngân hàng - bảo hiểm |
-2,00 |
-5,00 |
-5,00 |
-3 |
-1,50 |
-1,30 |
-1,00 |
-5,00 |
-6,00 |
-5,00 |
Dịch vụ khác |
-10,00 |
-5,00 |
-6,50 |
-3 |
-3,00 |
-4,00 |
-3,00 |
-5,00 |
-8,00 |
-4,00 |
Đầu tư |
+2,20 |
2,87 |
2,49 |
1,02 |
1,58 |
1,05 |
0,73 |
2,63 |
1,92 |
2,03 |
Xuất khẩu |
+1,59 |
-5,00 |
-5,50 |
-5 |
-1,50 |
-1,20 |
-1,20 |
-6,00 |
-7,00 |
-8,00 |
Nhập khẩu |
+1,05 |
-5,80 |
-4,00 |
-3 |
-1,50 |
-1,00 |
-1,00 |
-5,00 |
-6,00 |
-5,00 |
Tác động tổng thể tới GDP (điểm %) |
-2,95 |
-3,20 |
-2,78 |
-1,99 |
-2,68 |
-1,86 |
-1,40 |
-3,39 |
-3,31 |
-2,58 |
Dự báo tăng trưởng kinh tế (%, yoy) |
từ |
3,45 |
3,81 |
4,81 |
3,97 |
4,73 |
5,4 |
3,26 |
3,28 |
4,07 |
đến |
3,67 |
4,05 |
5,01 |
4,19 |
4,97 |
5,6 |
3,48 |
3,52 |
4,42 |
Nguồn: Đánh giá và tính toán của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV
Với kịch bản cơ sở, báo cáo nhận định các biện pháp của Chính phủ trong phòng chống dịch cũng như các chính sách hỗ trợ nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân tiếp tục phát huy hiệu quả, dịch bệnh tại Việt Nam nhiều khả năng được kiểm soát trong quý 2/2020 và các hoạt động kinh tế - xã hội sớm trở lại “bình thường” từ tháng 6 hoặc đầu tháng 7/2020.
Tuy nhiên, một số ngành sẽ có sự hồi phục chậm hơn do còn phụ thuộc vào diễn biến dịch trên thế giới (dự báo hết quý 3/2020), tâm lý người tiêu dùng, cũng như sự thay đổi về cấu trúc chuỗi sản xuất và tiêu thụ.
Theo đó, lợi nhuận ngành du lịch của Việt Nam năm 2020 dự báo giảm khoảng 35%; tiêu dùng cá nhân (bán lẻ) giảm khoảng 3% so với trường hợp không có dịch bệnh; nhưng Chính phủ tăng chi ngân sách cho các lĩnh vực, đặc biệt là y tế, ít nhất là khoảng 62 nghìn tỷ đồng, tương đương với khoảng 1%GDP (chưa kể các khoản huy động từ nguồn xã hội hóa khác). Lợi nhuận ngành vận tải - kho bãi giảm khoảng 3% (chủ yếu giảm tại phân ngành vận tải hành khách hàng không, dự báo giảm 35-40% cả năm 2020).
Tương tự, doanh thu ngành tài chính – ngân hàng giảm khoảng 3%. Lĩnh vực đầu tư có thể bị ảnh hưởng tiêu cực khi niềm tin của nhà đầu tư phụ thuộc lớn vào diễn biến dịch, nhưng đầu tư công và đầu tư tư nhân sẽ tăng mạnh mẽ hơn và có thể có sự dịch chuyển nhẹ về đầu tư thêm cho các ngành sản xuất, dịch vụ tiêu dùng nội địa. Tổng kim ngạch xuất-nhập khẩu giảm khoảng 5-8%. Với kịch bản này, tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2020 giảm từ 1,8-2 điểm %, tương đương với mức tăng trưởng cả năm từ 4,81- 5,01% (trong đó, quý 1 đạt mức tăng trưởng 3,82%; quý 2 dự báo tăng 3,45-3,67%; 6 tháng đầu năm dự báo tăng 3,81-4,05%).
Với kịch bản tích cực, các nước trên thế giới đạt được kết quả tích cực trong phòng, chống dịch bệnh, các biện pháp phong tỏa, cách ly không bị kéo dài (đỉnh dịch tại Mỹ và châu Âu rơi vào cuối tháng 4 đến nửa đầu tháng 5, sau đó Mỹ và châu Âu có thể khống chế dịch trong tháng 6/2020), và đại dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát vào giữa quý 3/2020; hoạt động sản xuất - kinh doanh sớm hồi phục từ cuối quý 3.
Còn tại Việt Nam, với giả định, dịch Covid-19 sẽ được kiểm soát cơ bản trong tháng 4/2020 hoặc giữa tháng 5/2020; hoạt động sản xuất – kinh doanh được khởi động ngay sau đó. Khi đó, doanh thu du lịch năm 2020 dự báo giảm khoảng 30% so với mức không có dịch bệnh; tiêu dùng cá nhân giảm nhẹ (-2%), song Chính phủ tăng chi tiêu công khoảng 1%. Lợi nhuận ngành vận tải - kho bãi chỉ giảm nhẹ 1-2%; đầu tư tuy có gặp khó khăn nhưng môi trường đầu tư được đảm bảo, giải ngân FDI giảm nhẹ (-1%), đầu tư công và đầu tư tư nhân tăng nhẹ 2%; tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu giảm hơn 3%. Theo kịch bản này, tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2020 giảm khoảng 1,4 điểm % và đạt mức 5,4-5,6%.
Với kịch bản tiêu cực, dịch bệnh bùng phát, đại dịch không được kiểm soát đến hết quý 3, bất chấp nỗ lực ứng phó của Chính phủ các nước. Còn tại Việt Nam, dịch bệnh được kiểm soát trong quý 2 nhưng chịu tác động tiêu cực từ tổng cung và tổng cầu từ bên ngoài. Khi đó, dự báo du lịch Việt Nam giảm đến 60% so với mức không có dịch bệnh; tiêu dùng cá nhân giảm mạnh (-4%) và Chính phủ tăng chi tiêu công (+2%). Lợi nhuận ngành vận tải – kho bãi giảm 10% (trong đó, vận tải hành khách hàng không giảm 65-70%); đầu tư bị giảm mạnh do tâm lý e ngại tăng, giải ngân FDI giảm từ 7-8%, đòi hỏi sự đầu tư mạnh hơn từ đầu tư công và đầu tư tư nhân nhằm giảm thiểu thiệt hại kinh tế; xuất-nhập khẩu giảm 8-10%. Theo kịch bản này, tăng trưởng GDP Việt Nam giảm khoảng 2,58 điểm %, đạt mức 4,07-4,42% năm 2020.
Như vậy, tùy theo diễn biến và khả năng kiểm soát đại dịch Covid-19 tại Việt Nam và trên thế giới, kinh tế Việt Nam năm 2020 theo kịch bản cơ sở có thể đạt mức tăng trưởng 4,81%-5,01% (hoặc từ 4,07% - trường hợp xấu nhất đến khoảng 5,6% - trường hợp tích cực nhất).
Một số kiến nghị chính sách
Qua đánh giá tác động của dịch Covid-19 tới kinh tế Việt Nam, TS.Cấn Văn Lực và cộng sự cho rằng, việc đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,8%, lạm phát được kiểm soát dưới 4% trong năm 2020 sẽ rất khó khả thi (nhất là đối với mục tiêu tăng trưởng). Tuy nhiên, việc Việt Nam phấn đấu đạt được mục tiêu kép: “phòng chống dịch Covid-19 thành công và đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội ở mức khả quan tối đa, như tăng trưởng GDP đạt khoảng 5%, kiểm soát lạm phát CPI dưới 4%” coi như là rất thành công và đáng ghi nhận. Để làm được điều này, Nhóm Nghiên cứu kiến nghị một số giải pháp.
Trước tiên là 5 giải pháp thực hiện trong ngắn hạn, gồm:
Thứ nhất, nhiệm vụ ưu tiên số 1, quan trọng hàng đầu hiện nay vẫn phải là phòng chống dịch Covid-19 hiệu quả; bởi vì làm tốt điều này cũng chính là góp phần quan trọng ổn định kinh tế-xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, tập trung đẩy nhanh tiến độ phê duyệt và triển khai các gói hỗ trợ mà Chính phủ đang tập trung chỉ đạo; nhất là gói hỗ trợ về tài khóa (khoảng 180.000 tỷ đồng, theo tinh thần Nghị định 41/2020/NĐ-CP ban hành và hiệu lực từ ngày 8/4/2020); gói hỗ trợ tiền tệ - tín dụng (lên đến 300.000 tỷ đồng thuộc diện cho vay mới và cơ cấu lại nợ, giãn hoãn nợ, giảm lãi/phí đối với dư nợ cũ khoảng 926.000 tỷ đồng; chính sách giảm lãi suất, điều hành kiểm soát lạm phát, tỷ giá…); gói hỗ trợ an sinh xã hội (khoảng 62.000 tỷ đồng, cho hơn 20 triệu người lao động, người yếu thế…); và các giải pháp bảo đảm an ninh trật tự trong bối cảnh hiện nay và sắp tới.
Thứ ba, thủ tục hành chính cần được giảm thiểu tối đa cùng với ứng dụng CNTT trong khâu hướng dẫn, tổ chức thực hiện các gói hỗ trợ này, nhằm đảo bảo phần hỗ trợ quý báu sớm đến được với người dân, doanh nghiệp một cách đúng, trúng và hiệu quả.
Thứ tư, đẩy nhanh tiến độ giải ngân đầu tư công, như là một giải pháp bù đắp thiếu hụt động lực tăng trưởng trong năm 2020 và cũng là động lực tăng trưởng dài hạn.
Thứ năm, song song với việc phòng chống dịch hiệu quả; cần nghiên cứu và cập nhật kịch bản phát triển kinh tế - xã hội năm 2020; cần có ngay những chính sách, biện pháp để khôi phục lại sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, người dân ngay sau khi dịch bệnh được kiểm soát tại Việt Nam. Theo nhóm nghiên cứu, Chính phủ có thể cân nhắc thành lập Ban chỉ đạo phục hồi kinh tế sau dịch bệnh, giúp việc cho Chính phủ trong việc phân tích, đánh giá trên cơ sở có số liệu, khoa học để đưa ra quyết định phạm vi và lộ trình cách ly như thế nào, điểm tối ưu giữa phòng chống dịch bệnh và khôi phục các hoạt động kinh tế - xã hội ra sao.
Còn trong dài hạn, báo cáo đề xuất 7 nhóm giải pháp, gồm:
Một là, nghiên cứu, lập và thực thi chiến lược đa dạng hóa thị trường và đối tác (cả thương mại và đầu tư) là cấp bách, nhằm hạn chế tối đa việc phụ thuộc quá nhiều vào một hoặc một vài thị trường hay đối tác, cũng là chiến lược phân tán rủi ro theo thông lệ;
Hai là, đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế (nhất là ba trụ cột đã xác định); tập trung nhiều hơn vào các yếu tố chất lượng, sáng tạo, bao trùm và bền vững; trong đó ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm làm chủ một số yếu tố đầu vào, vừa là hạn chế nhập khẩu... Cùng với đó, đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp một cách hiệu quả, lâu dài gắn kết chặt chẽ với phát triển nông thôn mới, hợp tác xã kiểu mới và quá trình đô thị hóa là rất quan trọng;
Ba là, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế đối với các cú sốc từ bên ngoài nhờ nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia và doanh nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất và phát triển thị trường tiêu thụ trong nước; tăng yêu cầu, quy định về an toàn thực phẩm, quy định xuất xứ đối với hàng hóa (đặc biệt là hàng tiêu dùng, nông thủy sản,…) nhập khẩu vào Việt Nam;
Bốn là, cần có chiến lược dài hạn về cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh, để từ đó có kế hoạch, lộ trình thực hiện từng năm (thay vì ban hành nghị quyết từng năm như hiện nay);
Năm là, đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế số, Chính phủ và giao dịch điện tử, thanh toán điện tử; vừa là để tăng năng suất lao động, vừa là theo kịp xu thế và giảm rủi ro lây lan dịch bệnh do tương tác trực tiếp;
Sáu là, tăng cường đầu tư cho y tế dự phòng, nhất là về nguồn nhân lực, nghiên cứu và phát triển (R&D), gồm cả nghiên cứu sản xuất thuốc, dược phẩm, dược liệu và vaccine phòng và thuốc đặc trị bệnh Covid-19 phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam;
Cuối cùng, cần có đánh giá, báo cáo tổng hợp, rút kinh nghiệm về dịch bệnh; thống kê thiệt hại, chi phí, tác động… đối với kinh tế - xã hội; rút ra bài học kinh nghiệm, từ đó làm cơ sở tham khảo đối với những trường hợp tương tự có thể xảy ra trong tương lai. Đồng thời, những bài học hay, cách làm hay, hiệu quả trong quá trình phòng, chống dịch bệnh cần được lưu lại dưới dạng qui trình, sổ tay để thống nhất áp dụng sau này.