Đại dịch COVID-19 sẽ gây tác động nghiêm trọng đến tăng trưởng toàn cầu
Nhìn ra thế giới - Ngày đăng : 16:39, 15/04/2020
Tuy nhiên, IMF cũng cảnh báo, dự đoán là không chắc chắn bởi kết quả phụ thuộc vào các yếu tố không chắc chắn, tương tác với nhau theo những cách khó dự đoán. Ví dụ, đường đi biến hóa của đại dịch, tiến trình tìm ra vắcxin và liệu pháp chữa trị, cường độ và hiệu quả của các nỗ lực ngăn chặn, mức độ gián đoạn nguồn cung và hiệu suất mất đi, hậu quả của việc thắt chặt trong điều kiện thị trường tài chính toàn cầu, thay đổi mô hình chi tiêu, thay đổi hành vi (như mọi người tránh các trung tâm mua sắm và phương tiện giao thông công cộng), hiệu ứng niềm tin và giá cả hàng hóa biến động.
Kinh tế toàn cầu suy thoái năm 2020
Tăng trưởng toàn cầu được dự đoán ở mức 3% vào năm 2020, kết quả tồi tệ hơn nhiều so với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2009. Dự báo tăng trưởng này giảm hơn 6 điểm phần trăm so với dự báo IMF đưa ra vào tháng 10/2019 và bản cập nhật vào tháng 1/2020. Tăng trưởng của nhóm nền kinh tế tiên tiến, trong đó một số nền kinh tế đang trải qua các đợt bùng phát dịch trên diện rộng và phải triển khai các biện pháp ngăn chặn, dự kiến sẽ ở mức -6,1% vào năm 2020. Hầu hết các nền kinh tế trong nhóm được dự báo sẽ đạt mức tăng trưởng âm trong năm nay, bao gồm cả Hoa Kỳ (-5,9%), Nhật Bản (-5,2%), Vương quốc Anh (-6,5%), Đức (-7,0%), Pháp (-7,2%), Ý (- ,1%) và Tây Ban Nha (-8,0%).
Mặc dù rất cần để ngăn chặn virus, xong việc phong tỏa và hạn chế đi lại đang ảnh hưởng rất lớn cho hoạt động kinh tế. Hiệu ứng niềm tin bất lợi cũng ảnh hưởng tới triển vọng kinh tế.
Nhóm các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển, tất cả các quốc gia đều phải đối mặt với khủng hoảng sức khỏe, cú sốc cầu nghiêm trọng từ bên ngoài, thắt chặt các điều kiện tài chính toàn cầu và giá cả hàng hóa sụt giảm, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh tế của các nhà xuất khẩu hàng hóa. Nhìn chung, nhóm các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển được dự kiến sẽ tăng trưởng ở mức -1% vào năm 2020; nếu không tính Trung Quốc, tốc độ tăng trưởng của nhóm dự kiến sẽ là -2,2%. Ngay cả ở các quốc gia không trải qua các đợt bùng phát được phát hiện rộng vào cuối tháng 3 (và do đó chưa triển khai các biện pháp ngăn chặn như ở những nơi có dịch), việc điều chỉnh giảm đáng kể đối với dự báo tăng trưởng năm 2020 phản ánh sự gián đoạn lớn đối với hoạt động kinh tế từ tác động dịch Covid-19. Tốc độ tăng trưởng năm 2020 của nhóm (không bao gồm Trung Quốc) dự báo giảm 5,8 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra hồi tháng 1/2020. Tăng trưởng sẽ còn thấp hơn nếu các biện pháp ngăn chặn nghiêm ngặt hơn được yêu cầu do sự lây lan rộng hơn của virus giữa các quốc gia này. Châu Á mới nổi được dự đoán là khu vực duy nhất có tốc độ tăng trưởng tích cực trong năm 2020 (1,0%), mặc dù thấp hơn 5 điểm phần trăm so với mức trung bình trong thập kỷ trước.
Tại Trung Quốc, các chỉ số như sản xuất công nghiệp, doanh số bán lẻ và đầu tư tài sản cố định cho thấy sự giảm sút trong hoạt động kinh tế ở quý đầu tiên có thể là khoảng 8% (tính theo năm). Ngay cả nếu có phục hồi mạnh mẽ trong thời gian còn lại của năm và được hỗ trợ tài chính khá lớn, nền kinh tế dự kiến cũng sẽ chỉ tăng trưởng ở mức 1,2% vào năm 2020. Một số nền kinh tế trong khu vực được dự báo sẽ tăng trưởng ở mức khiêm tốn, bao gồm Ấn Độ (1,9%), Indonesia (0,5%) và các quốc gia khác được dự báo sẽ trải qua suy giảm lớn (Thái Lan -6,7%). Các khu vực khác được dự báo suy giảm nghiêm trọng hoặc tăng trưởng âm trong hoạt động kinh tế, bao gồm châu Mỹ Latinh (-5,2%) với dự báo của Brazil ở mức -5,3% và Mexico -6,6%; các quốc gia đang nổi lên và đang phát triển ở châu Âu (-5,2%) – với Nga dự kiến ở mức -5,5%; Trung Đông và Trung Á (-2,8%) với các dự báo tăng trưởng của Ả Rập Xê Út ở mức -2,3%, với GDP phi dầu mỏ -4% và hầu hết các nền kinh tế, bao gồm cả Iran, dự kiến sẽ chỉ có mức tăng trưởng âm. Tình hình cũng tương tự ở châu Phi cận Sahara (-6%) với mức tăng trưởng của Nigeria và Nam Phi dự kiến lần lượt là -3,4% và -5,8%. Sau khi giá dầu giảm mạnh kể từ đầu năm, triển vọng ngắn hạn của các nước xuất khẩu dầu đã xấu đi đáng kể: tốc độ tăng trưởng của nhóm được dự đoán sẽ giảm xuống còn -4,4% vào năm 2020.
Phục hồi chưa chắc chắn trong năm 2021
Tăng trưởng toàn cầu dự kiến sẽ tăng trở lại ở mức 5,8% vào năm 2021, phản ánh sự bình thường hóa của hoạt động kinh tế từ mức rất thấp. Nhóm nền kinh tế tiên tiến được dự báo sẽ tăng trưởng 4,5%, trong khi tăng trưởng cho thị trường mới nổi và nhóm đang phát triển được dự báo là 6,6%.
Sự phục hồi của năm 2021 phụ thuộc rất nhiều vào sự giảm đi đáng kể của đại dịch trong nửa cuối năm 2020, cho phép các biện pháp ngăn chặn dịch bệnh dần được thu hẹp lại và khôi phục niềm tin của người tiêu dùng cũng như nhà đầu tư. Các hành động chính sách kinh tế quan trọng đã được thực hiện trên toàn thế giới, tập trung vào việc đáp ứng các yêu cầu chăm sóc sức khỏe cộng đồng, đồng thời hạn chế các tác động tới hoạt động kinh tế và hệ thống tài chính. Sự phục hồi dự kiến giả định rằng những hành động chính sách này có hiệu quả trong việc ngăn chặn các vụ phá sản doanh nghiệp trên diện rộng, mất việc làm kéo dài và các căng thẳng tài chính trên toàn hệ thống. Tuy nhiên, GDP vào cuối năm 2021 ở cả thị trường tiên tiến và mới nổi cũng như các nền kinh tế đang phát triển dự kiến sẽ vẫn ở dưới mức cơ sở trước khi có virus. Với quy mô suy thoái này, sức mạnh của sự phục hồi đang là điều không chắc chắn. Một số khía cạnh làm cơ sở cho sự phục hồi có thể không thành hiện thực, và kết quả tăng trưởng toàn cầu tồi tệ hơn là có thể, ví dụ, tăng trưởng âm ở mức lớn hơn vào năm 2020 và sự phục hồi yếu hơn vào năm 2021, tùy thuộc diễn tiến của đại dịch và mức độ nghiêm trọng của hậu quả kinh tế và tài chính đi kèm.
Một số rủi ro nghiêm trọng
Ngay cả sau khi hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu ở mức lớn, rủi ro đối với triển vọng vẫn hết sức tiêu cực. Đại dịch có thể tồn tại dai dẳng hơn giả định cơ sở. Hơn nữa, tác động của khủng hoảng sức khỏe đối với hoạt động kinh tế và thị trường tài chính có thể trở nên mạnh mẽ và lâu dài hơn, thử kiểm giới hạn của các ngân hàng trung ương để hỗ trợ hệ thống tài chính và gánh nặng tài chính gia tăng của cú sốc. Tất nhiên, nếu thuốc chữa hoặc vắc-xin được tìm thấy sớm hơn dự kiến, các biện pháp đánh giãn cách xã hội có thể được dỡ bỏ và sự phục hồi có thể xảy ra nhanh hơn dự đoán. Cho đến đầu tháng 4/2020, diễn tiến đại dịch COVID-19 vẫn chưa rõ ràng. Những nỗ lực ngăn chặn mạnh mẽ nhằm làm chậm sự lây lan của virus có thể cần duy trì lâu hơn nửa đầu năm nếu đại dịch chứng tỏ là dai dẳng hơn so với giả định trong giả định cơ sở. Khi các nỗ lực ngăn chặn dịch bệnh lây lan được dỡ bỏ và mọi người bắt đầu di chuyển tự do hơn, virus lại có thể lây lan nhanh chóng từ các cụm cục bộ còn sót lại. Hơn nữa, những nơi đã giảm được sự lây lan của bệnh dịch cộng đồng trong nước thành công có thể dễ bị tổn thương từ các trường hợp bị nhiễm virus từ nước ngoài. Trong những trường hợp như vậy, các biện pháp y tế công cộng sẽ cần được tăng cường trở lại, dẫn đến suy thoái lâu hơn so với giả định cơ sở. Và mặc dù căn bệnh này tập trung nhiều nhất ở các nền kinh tế tiên tiến, những đợt bùng phát mới ở các thị trường mới nổi hoặc các nền kinh tế đang phát triển có thể cản trở bất kỳ sự phục hồi nào và bản chất bùng phát của dịch bệnh có thể đồng nghĩa với sự gián đoạn kéo dài hơn đối với việc đi lại.
Sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu có thể yếu hơn dự kiến sau khi sự lây lan của virus đã chậm lại vì một số lý do khác, gồm sự không chắc chắn về sự lây nhiễm, lòng tin chưa được cải thiện, sự thay đổi cấu trúc trong hành vi của công ty và hộ gia đình…, dẫn đến sự gián đoạn chuỗi cung ứng kéo dài hơn và sự yếu đi trong tổng cầu. Những “vết sẹo” để lại do giảm đầu tư và phá sản có thể lan rộng hơn trong toàn bộ nền kinh tế. Niềm tin kinh doanh toàn cầu có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng, dẫn đến đầu tư và tăng trưởng yếu hơn so với dự kiến trong kịch bản cơ sở, phụ thuộc vào thời gian kéo dài của bệnh dịch. Liên quan đến sự không chắc chắn xung quanh COVID-19, một giai đoạn rủi ro kéo dài trên thị trường tài chính và thắt chặt các điều kiện tài chính có thể gây ra suy thoái sâu hơn và kéo dài hơn ở một số quốc gia.
Báo cáo của IMF cũng đưa ra 3 kịch bản để xem xét. Đầu tiên giả định thời gian kéo dài hơn của đại dịch và các biện pháp ngăn chặn cần thiết còn tồn tại lâu hơn khoảng 50% so với giả định cơ sở ở tất cả các quốc gia. Kịch bản thứ hai đề cập sự tái phát của một đợt bùng phát nhẹ hơn vào năm 2021. Kịch bản thứ ba xem xét tất cả các yếu tố tiêu cực như đại dịch kéo dài, nỗ lực ngăn chặn lâu hơn vào năm 2020 cũng như tái phát vào năm 2021. Các kịch bản dựa trên giả định cơ sở ở một số khía cạnh quan trọng như: mức độ ảnh hưởng trực tiếp về các biện pháp ngăn chặn sự lây lan của virus, thắt chặt các điều kiện tài chính và tốc độ khi nới lỏng; các vết sẹo để lại do sự biến dạng kinh tế trong quá trình ngưng hoạt động. Hộp kịch bản cho thấy, GDP toàn cầu được ước tính sai lệch đáng kể so với đường cơ sở trong các kịch bản, từ 3% dưới mức cơ sở vào năm 2020 trong trường hợp đầu tiên (đại dịch kéo dài năm 2020) đến 8% dưới mức cơ sở vào năm 2021 trong trường hợp thứ ba (đại dịch kéo dài vào năm 2020 và tái phát vào năm 2021). Trong tất cả các kịch bản, đầu ra chỉ phục hồi dần dần và vẫn nằm dưới đường cơ sở trong suốt trung hạn.
Một số ưu tiên chính sách
Xét về chính sách tiền tệ và tài khóa, báo cáo của IMF đưa ra một số nhận định và khuyến nghị sau:
Cung cấp thanh khoản và bảo lãnh tín dụng. Các ngân hàng trung ương nên cung cấp thanh khoản dồi dào cho các ngân hàng và các công ty tài chính phi ngân hàng, đặc biệt là cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những đối tượng có thể ít sự chuẩn bị để chống lại sự gián đoạn lớn. Một số ngân hàng trung ương (bao gồm Ngân hàng Trung ương châu Âu, Ngân hàng Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ, Ngân hàng Trung ương Anh, Ngân hàng Trung ương Canada và Ngân hàng Trung ương Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ) đã chuyển sang khởi động hoặc kích hoạt các chương trình cho vay có mục tiêu; ví dụ, cấp vốn cho các trung gian tài chính mua lại giấy tờ có giá của doanh nghiệp. Chính phủ có thể cung cấp bảo lãnh tín dụng tạm thời và nhắm mục tiêu hoặc cho vay trực tiếp cho nhu cầu thanh khoản ngắn hạn của các công ty này, mặc dù, để tránh rủi ro tài chính, các chính sách này chỉ nên tạm thời và được báo cáo minh bạch. Ví dụ, Hàn Quốc và Nhật Bản đã mở rộng cho vay đối với hoạt động kinh doanh và bảo lãnh cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị ảnh hưởng; Philippines đã giới thiệu gói cho vay tài chính vi mô mới dành cho các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa; Đức, Ý và Tây Ban Nha đã cung cấp bảo lãnh cho các công ty.
Tái cơ cấu khoản vay. Như đã lưu ý trong Báo cáo ổn định tài chính toàn cầu tháng 4/2020, các cơ quan giám sát cũng có thể khuyến khích các ngân hàng đàm phán lại các điều khoản cho vay đối với những người vay bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh mà không làm giảm tiêu chuẩn phân loại khoản vay và trích lập dự phòng. Ví dụ, tại Trung Quốc, các chủ nợ được khuyến khích tạm hoãn các khoản thanh toán khoản vay gốc và lãi đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đủ điều kiện. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc cũng đã tăng hạn mức cho vay lại và tái chiết khấu để hỗ trợ các đối tượng là nhà sản xuất vật tư y tế và nhu yếu phẩm hàng ngày cũng như các công ty siêu nhỏ, nhỏ và vừa với lãi suất thấp hơn. Các ngân hàng lấy chi phí tái cơ cấu các khoản vay bằng cách dựa vào khoản dự phòng bảo toàn vốn của họ hoặc, khi được kích hoạt, sử dụng dự phòng phản chu kỳ. Chất lượng tài sản ngân hàng cần được giám sát chặt chẽ để xác định xem có cần hỗ trợ tài chính (chẳng hạn như bơm vốn cổ phần) hay không, đặc biệt nếu tình trạng suy thoái vẫn còn.
Sử dụng các gói kích thích ở quy mô mở rộng hơn. Các ngân hàng trung ương ở các nền kinh tế thị trường tiên tiến và mới nổi đã phản ứng mạnh mẽ trước sự dừng lại đột ngột trong hoạt động thực tế và điều kiện tài chính thắt chặt nhanh chóng. Ngoài việc cắt giảm lãi suất thông thường, một số ngân hàng trung ương đã mở rộng đáng kể các chương trình mua tài sản. Ví dụ, Chương trình Mua khẩn cấp trị giá 750 tỷ euro của Ngân hàng Trung ương châu Âu để mua chứng khoán tư nhân và chứng khoán công; Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ có chương trình mua trái phiếu chính phủ Mỹ và chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp cũng như lần đầu tiên mua cả trái phiếu doanh nghiệp khi cần thiết, để đảm bảo hoạt động trơn tru của thị trường lên tới 300 tỷ USD; Ngân hàng Trung ương Canada mua chấp phiếu ngân hàng, chứng khoán thị trường tiền tệ cấp tỉnh, thương phiếu, trái phiếu chính phủ và trái phiếu thế chấp; Ngân hàng Trung ương Nhật Bản tăng quy mô mua trái phiếu chính phủ và doanh nghiệp, thương phiếu và các quỹ hoán đổi danh mục ETF. Những hành động đồng bộ này có thể tạo hiệu ứng tác động lớn hơn đến từng nền kinh tế và cũng sẽ giúp tạo không gian cho thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển sử dụng chính sách tiền tệ để đáp ứng các điều kiện chu kỳ trong nước. Nghiệp vụ hoán đổi (SWAP) mà một số ngân hàng trung ương kích hoạt gần đây sẽ cải thiện khả năng tiếp cận thanh khoản quốc tế. Việc mở rộng các giao dịch hoán đổi sang các ngân hàng trung ương thị trường mới nổi có thể giúp hạn chế các căng thẳng tài chính ở các quốc gia phải đối mặt với cú sốc tài trợ bên ngoài.
Không giống như trong thời kỳ suy thoái sâu khác, những hành động như vậy có thể có tác động tương đối hạn chế đối với chi tiêu trong bối cảnh hạn chế di chuyển và lệnh phong tỏa được áp dụng. Tuy nhiên, những biện pháp này đóng một vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn sự khuếch đại của cú sốc và đảm bảo hoạt động kinh tế ở vị thế để có thể phục hồi tốt hơn khi các biện pháp ngăn chặn lây lan dịch bệnh có thể dần được dỡ bỏ. Bằng cách hạn chế sự gia tăng chi phí đi vay, giảm bớt gánh nặng trong nghĩa vụ trả nợ và bảo vệ dòng tiền, hộ gia đình và doanh nghiệp tiếp tục hoạt động, giúp giảm tình trạng mất việc làm. Tương tự, kích thích tài khóa trên diện rộng như đầu tư cơ sở hạ tầng công cộng hoặc cắt giảm thuế toàn diện có thể ngăn chặn sự sụt giảm niềm tin, giúp nâng tổng cầu, hạn chế lan truyền cú sốc bằng cách giảm phá sản và ngăn chặn một suy thoái thậm chí sâu hơn. Bên cạnh đó, những biện pháp này rất có thể sẽ hiệu quả hơn trong việc kích thích chi tiêu sau khi đỉnh dịch đi qua, các biện pháp ngăn chặn dịch bệnh lây lan được dỡ bỏ và mọi người có thể đi lại tự do. Các nhà hoạch định chính sách nên tiếp tục phối hợp các phản ứng chính sách rộng hơn trên phạm vi quốc tế để lan tỏa tác động của các hành động của từng quốc gia.