Đợt dịch COVID lần 2 khiến nhiều doanh nghiệp mất cân đối dòng tiền
Doanh nghiệp - Ngày đăng : 10:23, 10/09/2020
Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) thuộc Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính vừa có báo cáo Thủ tướng kết quả khảo sát tác động của sự bùng phát dịch COVID-19 lần 2 đối với doanh nghiệp.
Đây là cuộc khảo sát lần 3 do Ban IV thực hiện với gần 350 doanh nghiệp và 15 hiệp hội nhằm nhận diện rõ hơn các khó khăn của doanh nghiệp khi dịch bệnh bùng phát lần hai.
Kết quả cho thấy 20% doanh nghiệp cho biết đã phải tạm dừng hoạt động; 76% doanh nghiệp không cân đối được thu chi; 2% doanh nghiệp đã giải thể và chỉ có 2% doanh nghiệp tạm thời chưa bị ảnh hưởng bởi đại dịch.
Những khó khăn lớn nhất mà doanh nghiệp gặp phải là không có khách hàng, đơn hàng, hợp đồng tiêu thụ sản phẩm. Trong khi đó, phải chịu áp lực để đảm bảo tiền lương, trả bảo hiểm xã hội và các chi phí khác cho người lao động, trả tiền vay ngân hàng lãi và nợ gốc, các chi phí đầu vào như điện, nước, nguyên liệu, thuê kho, nhà xưởng...
Đặc biệt một số hiệp hội cho biết tiền thuê đất năm 2020 tăng đột biến bởi một số điều chỉnh chính sách, cách thức tính toán giá thuê đất...dẫn tới các doanh nghiệp sử dụng quỹ đất lớn phải nộp tiền thuê đất tăng từ vài chục phần trăm tới mấy trăm phần trăm so với giá thuê 2019 trở về trước.
Đây là vấn đề gây áp lực nghiêm trọng với doanh nghiệp bởi bối cảnh hiện nay, đơn hàng sụt giảm mạnh hoặc không có, nhiều ngành như du lịch thì hoạt động thậm chí đang “đóng băng”.
Những khó khăn lớn nhất doanh nghiệp phải đối mặt trong vòng 6 tháng tới. Nguồn: Ban IV |
Trong khảo sát lần 1 hồi tháng 3/2020 về tác động của COVID-19 đến doanh nghiệp, mức độ ảnh hưởng nếu dịch bệnh kéo dài trên 6 tháng đã được dự báo khá rõ nét như “nguy cơ phá sản là gần 74%” và “tỷ lệ doanh nghiệp có doanh thu bị giảm trên 50% chiếm hơn 60%” số doanh nghiệp khảo sát.
Trong bối cảnh hiện nay, COVID-19 gây thiệt hại trên diện rộng các ngành và mọi quốc gia, nhiều doanh nghiệp phá sản, các chuỗi cung bị đứt gãy, thị trường khủng hoảng và sút giảm nặng nề sức mua... dẫn tới nhiều doanh nghiệp không có khả năng thanh toán hoặc chậm trễ thanh toán dù đã nhận hàng. Vấn đề này tác động trực tiếp đến dòng tiền vào của các doanh nghiệp sản xuất và cung ứng hàng cũng như các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ trung gian/liên quan. Điều này gây ra “áp lực kép” cho doanh nghiệp bởi vẫn phải đảm bảo các khoản “chi ngay” cho nguyên, nhiên liệu đầu vào, chi nhân công...
Theo kết quả khảo sát, có tới 76% số doanh nghiệp hiện không cân đối được thu chi, trong đó 54% doanh nghiệp có dòng tiền vào chỉ đáp ứng dưới 50% chi phí. Chỉ có 7% doanh nghiệp trả lời có dòng tiền vào đáp ứng trên 75% chi phí và kết quả này hoàn toàn tương đồng với nhóm khó khăn lớn nhất “không có đơn hàng/khách hàng” mà các doanh nghiệp, hiệp hội đã trả lời.
Như vậy, cân đối được dòng tiền vào với chi phí của doanh nghiệp là bài toán lớn nhất hiện nay. Doanh nghiệp có dòng tiền vào đáp ứng trên chi phí càng thấp thì mức độ tổn thương do dịch bệnh kéo dài hoặc nguy cơ phá sản càng cao.
Theo số liệu 8 tháng đầu năm 2020 trên Cổng thông tin Quốc gia về đăng ký doanh nghiệp thì số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống là 1.918 (tăng 89,7% so với cùng kỳ năm 2019), ngành nghệ thuật, vui chơi, giải trí là 248 doanh nghiệp (tăng 77,1%), ngành dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác là 1.927 doanh nghiệp (tăng 85,5%).
Đối với số liệu các doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động kinh doanh, kết quả khảo sát cho thấy, dưới tác động của đợt bùng phát dịch COVID-19 lần 2 đã khiến 20% doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động kinh doanh.
Tình trạng khó khăn trên cũng đã khiến 47% doanh nghiệp phải cắt giảm lao động, tỉ lệ doanh nghiệp cắt giảm trên 50% lao động chiếm 33% số doanh nghiệp trả lời. Trong đó du lịch chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, ngành nông sản, nhựa, công nghệ thông tin...
Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy các doanh nghiệp tồn tại đến thời điểm này đã là nỗ lực cực kì lớn, nhất là nỗ lực giữ người lao động, đặc biệt bộ máy lao động chủ chốt, các quản lý cấp trung và những lao động lành nghề còn lớn hơn nữa. Hầu hết chủ doanh nghiệp đều nhận thức được rằng người lao động là tài sản quý nhất của doanh nghiệp, còn người lao động thì còn doanh nghiệp và mất người lao động bản thân doanh nghiệp sẽ dần lao đao.
Chính sách doanh nghiệp thực hiện với người lao động. Nguồn: Ban IV |
Trước thực trạng trên, cơ quan này cho rằng với gói hỗ trợ lần 2 tới đây, rất mong Chính phủ xây dựng các chính sách hướng tới việc củng cố niềm tin và tạo động lực nhiều hơn cho doanh nghiệp. Cũng bởi khảo sát cho thấy có sự suy giảm niềm tin của doanh nghiệp và hiệp hội khi được hỏi ý kiến về hiệu quả các chính sách đã ban hành.
Thay vì các chính sách hỗ trợ khi doanh nghiệp đã “kiệt quệ” và đổ vỡ, thì cần sửa đổi theo hướng có nhiều hơn những chính sách giúp doanh nghiệp tiết giảm được dòng tiền chi ra để doanh nghiệp cân đối và sử dụng dòng vốn còn rất mỏng cho các khoản chi tối thiểu nhằm duy trì người lao động, duy trì sản xuất/kinh doanh và tái cấu trúc doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện gói hỗ trợ đảm bảo an sinh xã hội dành cho người lao động, đồng thời cắt giảm mạnh các quy trình, thủ tục hành chính và các điều kiện bất hợp lý, đẩy mạnh trực tuyến quá trình này để doanh nghiệp và người lao động tiếp cận chính sách thuận lợi hơn.
Đặc biệt, Thủ tướng nên chỉ đạo rà soát các chính sách đã ban hành trong gói hỗ trợ lần 1 để điều chỉnh, giảm tải các quy định, điều kiện, thủ tục còn rườm rà, bất hợp lý. Giao các bộ. ngành nghiên cứu, tham mưu những chính sách giúp doanh nghiệp tiết giảm dòng tiền chi ra để giúp doanh nghiệp cân đối, sử dụng dòng vốn còn rất mỏng cho các khoản chi tối thiểu nhằm duy trì người lao động, sản xuất, kinh doanh và tái cấu trúc doanh nghiệp.