Năm 2021: GDP của Việt Nam được dự báo tăng khoảng 6,5-7%
Vấn đề - Nhận định - Ngày đăng : 14:01, 15/10/2020
Đây là một trong những điểm nhấn trong báo cáo kinh tế vĩ mô Việt Nam vừa được Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV công bố. Báo cáo cho biết, mức dự báo này cũng khá tương đồng so với mức dự báo của các tổ chức quốc tế (IMF, WB, ADB) dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng từ 1,8-2,8% năm 2020 và 6,3-7% năm 2021; lạm phát được kiểm soát ở mức 3,5-3,8% năm 2020 và khoảng 3,8-4% năm 2021.
Những điểm nhấn của kinh tế Việt Nam năm 2020-2021
Về tăng trưởng GDP. Nhìn về phía cầu, các chuyên gia của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV cho rằng, các động lực chính cho tăng trưởng kinh tế trong những năm qua, sẽ còn tiếp tục được phát huy trong quý V/2020 và năm 2021, gồm: Tăng cường xuất khẩu, tăng đầu tư toàn xã hội về cả lượng và chất, tiêu dùng trong nước theo hướng lành mạnh hơn.
Còn theo hướng cung, những động lực cho tăng trưởng chính sẽ tập trung chủ yếu vào khu vực nông nghiệp (chú trọng phát triển theo hướng ứng dụng công nghệ cao) và công nghiệp - xây dựng. Công nghiệp chế biến - chế tạo trong các ngành sản xuất thiết bị điện tử, máy tính, điện thoại di động, sản xuất và lắp ráp ô tô vẫn sẽ là động lực cho tăng trưởng khu vực công nghiệp nói riêng và cho tăng trưởng kinh tế nói chung.
Đáng chú ý, sản xuất - xuất khẩu nông sản và thiết bị điện tử, điện thoại, máy vi tính có thể bù đắp cho khó khăn trong những ngành vốn là thế mạnh của Việt Nam như dệt may, da giày,… Trong khi đó, động lực tăng trưởng kinh tế từ khu vực dịch vụ, du lịch, tiêu dùng cá nhân sẽ phụ thuộc nhiều vào diễn biến dịch bệnh trên thế giới và công tác phòng - chống dịch bệnh của Việt Nam, nhưng sẽ cơ bản hồi phục, có thể đạt mức tăng trưởng khoảng 6,5-7%.
Về lạm phát. Dự báo, chỉ số CPI (đặc biệt nhóm hàng thiết yếu) có thể tăng cao hơn vào những tháng cuối năm 2020 do ảnh hưởng của dịch COVID-19, thời tiết, thời vụ và việc mở rộng tài khóa tiền tệ để hỗ trợ nền kinh tế. Áp lực lạm phát sẽ tăng cao hơn nữa trong năm 2021 do tác động của đà hồi phục kinh tế; sự tăng lên của giá dầu thế giới; lộ trình tăng giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý; độ trễ tác động của chính sách tiền tệ-tài khóa nới lỏng.
Tuy vậy, lạm phát sẽ được kiểm soát; khi cung cầu hàng hóa duy trì sự cân bằng, tỷ giá và lãi suất ổn định. Dự báo chỉ số CPI bình quân năm 2021 sẽ tăng 3,8-4%, tăng 0,2-0,5 điểm % so với năm 2020. Với triển vọng kiểm soát tốt dịch bệnh, nhóm hàng hóa thiết yếu; nhóm giao thông; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch sẽ dần hồi phục trạng thái bình thường trước dịch và sẽ ít biến động hơn năm 2020.
Về xuất nhập khẩu. Mặc dù chưa đạt mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu cả năm 2020 (7%) song tốc độ tăng của xuất khẩu sẽ duy trì mức cao hơn nhập khẩu (nhập khẩu cũng sẽ sớm lấy lại đà tăng cùng với sự khôi phục sản xuất trong nước). Dự báo, cán cân thương mại năm 2020 ở mức 18-20 tỷ USD. Trong năm 2021, xuất nhập khẩu tăng trưởng tốt hơn khi thương mại toàn cầu từng bước được khôi phục sau dịch bệnh; kim ngạch xuất khẩu dự kiến tăng 5%, trong khi nhập khẩu tăng 7% so với cùng kỳ, cán cân thương mại dự kiến ở mức thặng dư 10-15 tỷ USD.
Về đầu tư nước ngoài. Trong các tháng còn lại của năm 2020, hoạt động của khu vực FDI vẫn sẽ chịu ảnh hưởng từ đại dịch COVID-19 và vốn đăng ký dự kiến sẽ đạt từ 33-34 tỷ USD, thực hiện đạt khoảng 19-20 tỷ USD, lần lượt giảm khoảng -12% và -5% so với cùng kỳ 2019.
Tuy nhiên, trong bối cảnh xu hướng dịch chuyển cơ sở sản xuất ra ngoài Trung Quốc của nhiều nhà đầu tư quốc tế đang diễn ra ngày càng rõ nét, và với những lợi thế của Việt Nam về chi phí sản xuất, tham gia các FTA thế hệ mới, môi trường đầu tư đang được nỗ lực cải thiện, dự kiến hoạt động thu hút vốn FDI của Việt Nam sẽ có nhiều kết quả khả quan trong năm 2021. Thu hút FDI năm 2021, dự kiến FDI tăng trưởng tích cực, ở mức khoảng 36-38 tỷ USD, tương đương mức năm 2019.
Về lãi suất. Dự kiến trong 3 tháng cuối năm 2020, lãi suất tiếp tục ổn định nhờ: NHNN tiếp tục việc hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống duy trì lãi suất ở mức thấp; nhu cầu tín dụng dù có khả năng phục hồi song mức tăng trưởng tín dụng cả năm sẽ không quá lớn (dự kiến 8-9%); tỷ giá duy trì xu hướng ổn định.
Trong năm 2021, lãi suất sẽ chịu nhiều sức ép tăng khi nhu cầu tín dụng phục hồi, áp lực lạm phát cao hơn, song dự kiến chỉ tăng nhẹ khi NHNN tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt để hỗ trợ phục hồi kinh tế.
Về tỷ giá. Trong 3 tháng cuối năm 2020 dự báo tỷ giá tiếp tục xu hướng ổn định. Bước sang năm 2021, tỷ giá dự kiến tăng ở mức 1-1,5% so với cuối năm trước do: Hoạt động kinh tế phục hồi khiến nhu cầu thanh toán, vay ngoại tệ bằng đồng USD tăng lên; triển vọng kinh tế Mỹ tăng trưởng sau dịch bệnh, giúp đồng USD tăng giá.
Về nợ xấu. Dự kiến nợ xấu nợ bảng cuối năm 2020 có thể ở mức 3% và 3,5-4% trong năm 2021, cao hơn mức 1,89% cuối năm 2019 khi: Các TCTD ghi nhận nợ xấu, trích lập dự phòng trong quý cuối năm (hiện nay Thông tư 01 đang được xem xét sửa đổi theo hướng cho phép cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ đủ tiêu chuẩn đối với các khoản giải ngân từ ngày 23/1 đến ngày 10/6/2020 – theo dự thảo Thông tư 01 sửa đổi), song xu hướng chung các TCTD vẫn sẽ tăng cường trích lập rủi ro để cải thiện chất lượng tài sản); đà phục hồi kinh tế còn chậm và gặp nhiều thách thức khiến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tiếp tục gặp nhiều khó khăn.
Báo cáo cũng cho rằng, trong 3 tháng cuối năm 2020 và cả năm 2021, nền kinh tế có thể gặp 4 thách thức lớn, gồm: (i) dịch bệnh dù có thể cơ bản được kiểm soát song vẫn có thể bùng phát trở lại; từ đó sẽ ảnh hưởng tới tâm lý tiêu dùng và hoạt động đầu tư của doanh nghiệp; (ii) rủi ro nợ công, thâm hụt ngân sách và nợ xấu có thể gia tăng; (iii) quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh cần nhiều biện pháp quyết liệt, đồng bộ nhằm đạt được những cải cách thực chất hơn; và (iv) biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường thách thức ổn định và phát triển bền vững.
9 khuyến nghị giúp hoàn thành mục tiêu kép “vừa chống dịch, vừa khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh”
Năm 2021 sẽ là năm quan trọng bởi đây là năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đây cũng là năm kinh tế Việt Nam phải vượt qua những tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19 để tận dụng những cơ hội mới được tạo ra từ chính đại dịch này.
Các chuyên gia của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV nhận định: “Năm 2021 sẽ là năm phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19, với mục tiêu chính là giữ ổn định, tạo việc làm; từ đó tạo nền tảng vững chắc cho kinh tế bứt phá trong giai đoạn 2022-2025”.
Với nhận định này, báo cáo khuyến nghị: “Trong quý 4/2020 và năm 2021, Chính phủ cần tiếp tục thực hiện mục tiêu kép: vừa phòng chống dịch COVID-19 hiệu quả, vừa khôi phục các hoạt động kinh tế - xã hội, phấn đấu tăng trưởng GDP năm 2020 đạt khoảng 2,5% và 2021 đạt khoảng 6,5-7%, kiểm soát lạm phát dưới 4%”.
Để đạt được mục tiêu trên, các chuyên gia của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV khuyến nghị 9 điểm, gồm:
Đầu tiên, đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường trọng điểm như Trung Quốc, Mỹ, EU, ASEAN, Nhật Bản và Hàn Quốc (chiếm đến 80% kim ngạch XK của Việt Nam), nhất là EVFTA đã có hiệu lực, RCEP có thể được ký kết trong năm 2020. Trong đó, đối với thị trường Mỹ, cần chú ý cân bằng cán cân thương mại hơn bằng cách tiếp tục tăng cường nhập khẩu hàng thiết yếu, công nghệ, thiết bị y tế (có thể cả vaccine) từ Mỹ.
Thứ hai, tiếp tục ưu tiên đẩy nhanh tiến độ giải ngân đầu tư công (song vẫn đảm bảo chất lượng), như là một giải pháp bù đắp thiếu hụt động lực tăng trưởng trong năm 2021 và cũng là động lực tăng trưởng dài hạn. Theo tính toán của Tổng Cục thống kê, khi giải ngân vốn đầu tư công tăng thêm 1% sẽ làm tăng trưởng GDP thêm 0,06 điểm %. Cần ưu tiên nhiều hơn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, các cơ sở và dịch vụ chăm sóc sức khỏe, nền tảng CNTT, phát triển khu vực nông thôn…
Thứ ba, thúc đẩy mạnh mẽ khối kinh tế tư nhân. Điều này cũng phù hợp với định hướng tập trung khai thác, nâng cao năng lực cạnh tranh của thị trường nội địa và hỗ trợ các DNNVV. Theo tính toán sơ bộ, nếu đầu tư tư nhân (chưa tính đến hộ kinh doanh cá thể) tăng 1%, thì sẽ giúp GDP Việt Nam năm 2021 tăng trưởng thêm 0,156 điểm %;
Thứ tư, đẩy mạnh kích cầu thị trường nội địa. Nếu tiêu dùng cá nhân tăng 1%, thì sẽ giúp GDP năm 2021 tăng thêm 0,12 điểm %. Một số lĩnh vực có thể xem xét kích cầu nội địa là bán lẻ, du lịch, hàng không…
Thứ năm, phát huy thế mạnh các trụ cột, đầu tàu tăng trưởng, lan tỏa nhất là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh; các thành phố này đóng góp 38,3% GDP năm 2019. Vì vậy, nếu hai thành phố này phấn đấu kinh tế tăng trưởng thêm 1 điểm %, thì sẽ giúp GDP cả nước năm 2021 tăng trưởng thêm 0,38 điểm %.
Theo đó, Hà Nội và TP Hồ Chí Minh cần tiếp tục phấn đấu tăng trưởng GRDP cao gấp khoảng 1,3-1,5 lần mức tăng trưởng GDP cả nước; đi đầu trong việc phát triển các lĩnh vực dịch vụ, du lịch, giáo dục - đào tạo, y tế, công nghệ cao, tài chính - ngân hàng… từ đó tạo động lực, lan tỏa thúc đẩy tăng trưởng của các địa phương khác.
Bên cạnh đó, cũng cần phát huy nội lực của các địa bàn động lực có nhiều tiềm năng tăng trưởng như: Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ, Quảng Ninh, Bình Dương, Đồng Nai…
Thứ sáu, đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế số, Chính phủ và giao dịch điện tử, thanh toán điện tử; vừa là để tăng năng suất lao động, vừa là theo kịp xu thế và giảm rủi ro lây lan dịch bệnh do tương tác trực tiếp. Theo Báo cáo của Tổ chức tư vấn CSIRO (Úc) phối hợp Bộ KH-CN về “Tương lai nền kinh tế số Việt Nam hướng đến năm 2030 và 2045” năm 2019, nếu Việt Nam lựa chọn phương án “Chuyển đổi số”, thì GDP Việt Nam có thể tăng thêm 1,1 điểm %/năm.
Theo đó, cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý đối với một số mô hình kinh doanh mới trên nền tảng công nghệ (cho vay ngang hàng, Fintech, dịch vụ Mobile money, kinh tế chia sẻ, xác thực điện tử...), cho phép triển khai mô hình kinh doanh mới trên nền tảng công nghệ (kể cả dạng thử nghiệm sandbox) và đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở dữ liệu định danh cá nhân quốc gia…
Thứ bảy, tiếp tục cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh, để vừa tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, vừa tận dụng cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài (cả trực tiếp và gián tiếp) trong bối cảnh xu thế dịch chuyển vốn đầu tư sang Đông Nam Á, trong đó Việt Nam là một ưu tiên lựa chọn của các nhà đầu tư nước ngoài;
Thứ tám, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong phòng chống dịch COVID-19, khai thác hiệu quả nguồn lực hỗ trợ của các tổ chức quốc tế như WB, IMF, ADB, các nhà tài trợ song phương nhằm có thêm nguồn lực hỗ trợ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế. Đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các định chế tài chính trong việc ổn định lĩnh vực tài chính tiền tệ, tăng độ chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc; đồng thời giảm thiểu thiệt hại (nếu có) trước những cú sốc, đặc biệt là cú sốc từ bên ngoài.
Cuối cùng, ổn định và có chính sách hỗ trợ cụ thể một số ngành, lĩnh vực như dệt may, vận tải, du lịch, giáo dục – đào tạo… là những ngành chịu nhiều tác động tiêu cực từ dịch COVID-19 nhằm ổn định kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp, giữ được việc làm, tạo tiền đề cho tăng trưởng từ năm 2022. Đồng thời, lành mạnh hóa các thị trường bất động sản, tài chính, đất đai nhằm đảm bảo phát triển ổn định và bền vững hơn.