Dệt may – da giày sau 1 năm COVID-19: Hướng tới hình thành chuỗi cung ứng, giảm phụ thuộc nhập khẩu

Các Hiệp hội ngành, nghề - Ngày đăng : 18:28, 11/12/2020

(thitruongtaichinhtiente.vn) - Trong bối cảnh khó khăn chung do dịch COVID-19, ngành dệt may và da giày đã phục hồi nhanh chóng và hướng tới hình thành chuỗi cung ứng, giảm sự phụ thuộc vào nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu.

 

Dệt may – da giày phục hồi mạnh mẽ

Ngày 11/12, tại Hà Nội, Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) đã tổ chức Hội thảo quốc tế ngành dệt may – da giày Việt Nam tổng kết 1 năm sau COVID-19 và phát triển bền vững.

Tại hội thảo, nhiều doanh nghiệp và chuyên gia cho rằng, trong bối cảnh khó khăn chung do dịch COVID-19, ngành dệt may và da giày Việt Nam đã vượt qua những khó khăn và phục hồi mạnh mẽ, khả năng liên kết để hình thành chuỗi cung ứng nội địa tốt hơn, tạo cơ hội cho ngành dệt may, da giày đột phá vào những năm tới.

Chia sẻ tại hội thảo, bà Đỗ Quỳnh Chi, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quan hệ lao động cho biết, dịch COVID-19 khiến tổng cầu trên toàn thế giới đối với mặt hàng dệt may, da giày giảm mạnh. Nhu cầu ở EU giảm 27% tiêu thụ giày và 45% quần áo. Nhu cầu ở Mỹ giảm 21% tiêu thụ giày và 40% quần áo. Giá nhập khẩu giảm mạnh, đến tháng 9/2020, giá hàng may mặc vào Mỹ đã giảm khoảng 13%.

Các doanh nghiệp dệt may và giày dép Việt Nam cũng chịu tác động mạnh. Có tới 94,2% doanh nghiệp da giày, 87,1% doanh nghiệp dệt may bị giảm đơn hàng, 84,5% doanh nghiệp da giày, 53,5% doanh nghiệp dệt may bị khách hoãn hủy đơn và 74,8 doanh nghiệp da giày, 22,9% doanh nghiệp dệt may không xuất khẩu được. Nhìn chung, mức giảm lớn nhất diễn ra vào quý 1 và phục hồi mạnh mẽ vào quý 3/2020.

Tuy nhiên, do chiến tranh thương mại, đơn hàng đã chuyển mạnh sang Việt Nam và một số quốc gia khác. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu may mặc lớn nhất vào Mỹ. Nhờ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), dư địa tăng xuất khẩu vào EU còn rất lớn cho doanh nghiệp Việt Nam. Theo bà Đỗ Quỳnh Chi, xuất khẩu giày có thể tăng 50%, dệt may có thể tăng 67% vào năm 2025.

Trước những tác động của dịch COVID-19, nhiều doanh nghiệp đã thay đổi chiến lược về phát triển sản phẩm và tìm khách hàng mới. Các doanh nghiệp đã bắt đầu một số điều chỉnh mang tính chiến lược trong thời gian từ 1-3 năm tới. Cùng đó, có tới 55,7% doanh nghiệp dự định thúc đẩy tự động hóa, 49,8% sẽ phát triển sản phẩm mới, 39,9% sẽ đa dạng hơn nữa sản phẩm và 41,5% sẽ đầu tư nâng cao kĩ năng lao động.

Bà Đỗ Quỳnh Chi khuyến nghị các doanh nghiệp, xu hướng ngắn hạn và trung hạn là đa dạng hóa khách hàng, thị trường và sản phẩm là cứu cánh cho các doanh nghiệp dệt may duy trì sản xuất. Các doanh nghiệp lớn cần chuyển sang thực hiện các đơn hàng ODM (tự chủ tất cả các khâu) thay vì thực hiện các đơn hàng CMT (chỉ gia công). Trong dài hạn từ 3 năm trở lên, xu hướng là công nghệ xanh mạnh mẽ và tiếp tục tự động hóa.

Hình thành chuỗi cung ứng ứng phó với nguồn cung gián đoạn

Khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Quan hệ lao động, dịch COVID-19 đã khiến cho các doanh nghiệp tăng mạnh nhu cầu liên kết với các doanh nghiệp khác tại Việt Nam để đảm bảo chuỗi cung ứng giảm phụ thuộc vào nguyên vật liệu nhập khẩu.

Nhu cầu liên kết giữa các doanh nghiệp trong dịch COVID-19 gồm: mua bán nguyên vật liệu trong nước để thay thế nguồn cung nhập khẩu bị gián đoạn hoặc có giá thành cao hơn; chia sẻ đơn hàng, đặc biệt giữa các công ty lớn và các công ty vừa và nhỏ; học hỏi kinh nghiệm của nhau như công nghệ, máy móc, thực hiện các tiêu chuẩn môi trường như xử lý nước thải, dùng năng lượng mặt trời...và các vấn đề khác.

Theo ông Nguyễn Văn Thời, Chủ tịch Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG, khi dịch COVID-19 xảy ra, việc đứt gãy nguyên phụ liệu từ nước ngoài khiến doanh nghiệp gặp khó, buộc doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn cung từ các nhà cung ứng trong nước. Chính dịch COVID-19 đã kéo doanh nghiệp trong nước “lại gần” nhau hơn, kết nối tốt hơn.

Khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Quan hệ lao động cho thấy, 46,6% doanh nghiệp đã thực hiện việc liên kết với doanh nghiệp khác và 39,5% dự định thực hiện việc liên kết trong thời gian từ 1-3 năm tới.

Theo ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, ngoài động lực từ dịch COVID-19, việc phải đáp ứng các tiêu chuẩn về nguồn gốc xuất xứ cũng đang thúc đẩy các nhà máy và cả nhãn hàng tăng cường mua bán nguyên vật liệu trong nước. Doanh nghiệp sợi trong nước đã tăng cường bán sợi cho nhiều doanh nghiệp FDI trong nước trong thời gian dịch.

Nhiều nhà máy may cho biết, họ thuyết phục nhãn hàng sử dụng vải và nguyên phụ liệu trong nước thay vì nhập khẩu hoàn toàn như trước đây để tận dụng được ưu đãi thuế quan qua hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA).

Cũng theo chia sẻ của ông Vũ Đức Giang, có tới gần một nửa nhãn hàng thời trang cho biết sẽ tăng mua từ Việt Nam sau dịch COVID-19. Một phần do chiến lược đa dạng hóa chuỗi cung ứng và một phần do các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam vừa tham gia. Số còn lại cân nhắc về việc thiếu nguyên phụ liệu khiến các nhãn hàng từ châu Âu và khối Hiệp định CPTPP không được hưởng ưu đãi thuế qua Hiệp định EVFTA và CPTPP.

Nâng cao giá trị chuỗi cung ứng

Theo báo cáo của Nhóm hợp tác Công – Tư Vì sự phát triển bền vững của ngành dệt may – da giày Việt Nam, ngày càng nhiều các nhãn hàng tìm tới các quốc gia như Việt Nam trong nỗ lực đa dạng hóa nguồn cung và giảm rủi ro cho chuỗi cung ứng.

Với nhiều lợi thế, ngành dệt may Việt Nam cần tập trung vào dòng sản phẩm khó, giá trị cao bên cạnh cải thiện việc nâng cao uy tín quốc tế về khía cạnh môi trường và lao động để thu hút các nhãn hàng lớn, mở rộng thị phần, chiếm lĩnh vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị.

Nhóm công tác cho rằng các doanh nghiệp lớn cần tiếp tục cải thiện việc tuân thủ tiêu chuẩn lao động và môi trường theo các cam kết hội nhập, đặc biệt là CPTPP và EVFTA. Họ cần tham gia trực tiếp nhiều hơn và sâu hơn vào chuỗi cung ứng để chủ động nguồn nguyên vật liệu, chiếm vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị. Ngoài ra, các doanh nghiệp chỉ làm gia công qua trung gian và còn yếu về việc tuân thủ tiêu chuẩn lao động và môi trường được dự báo sẽ phải dần thu hẹp sản xuất.

Với lợi thế kĩ năng lao động tốt, ngành dệt may – da giày Việt Nam có những thành công bước đầu khi tập trung vào các sản phẩm khó và giá trị cao hơn. Các doanh nghiệp cần chuyển từ gia công thuần túy sang OEM và ODM, tiến lên các bước sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn.

Nếu các doanh nghiệp không đủ năng lực làm OEM và ODM và đảm bảo tuân thủ các yêu cầu về phát triển bền vững cả về mặt lao động và môi trường thì sẽ mất cơ hội tham gia trực tiếp vào các chuỗi cung ứng.

Tuy nhiên, Nhóm hợp tác lưu ý Chính phủ cần tiếp tục thiết kế các gói hỗ trợ khẩn cấp trong khoảng thời gian ít nhất là 12 tháng cho người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 và nhiều giải pháp hỗ trợ khác. Điều này sẽ góp phần duy trì việc làm, thu nhập và năng suất lao động và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tái tuyển dụng lao động của doanh nghiệp khi sản xuất phục hồi.

Hoàng Duy