TS.Nguyễn Đức Độ: Nợ xấu vẫn là vấn đề mà các ngân hàng cần phải lưu tâm
Nghiên cứu - Trao đổi - Ngày đăng : 14:00, 09/02/2021
Phóng viên: Trong bối cảnh nền kinh tế chịu tác động nặng nề bởi đại dịch COVID-19 và thiên tai bão lũ bất thường tại khu vực miền Trung, ông đánh giá như thế nào về những thành công trong điều hành chính sách tài chính – tiền tệ trong năm 2020?
TS.Nguyễn Đức Độ: Khi nền kinh tế đang trong giai đoạn khó khăn do ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, xu hướng chủ đạo trên thế giới trong hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ là nới lỏng, ngoại trừ trường hợp nền kinh tế đang đối mặt với lạm phát cao. Việt Nam cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Trong năm 2020, NHNN đã giảm lãi suất điều hành 3 đợt với mức giảm từ 1,5%-2,0% để hỗ trợ nền kinh tế, ban hành các quy định về giãn nợ để hỗ trợ doanh nghiệp. Bộ Tài chính cũng đã thực hiện nhiều biện pháp miễn, giảm thuế, còn các bộ ngành khác cũng đẩy nhanh tốc độ giải ngân vốn đầu tư công.
Nhờ các chính sách này, lãi suất huy động và cho vay trên thị trường giảm mạnh, điển hình là lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên đã giảm về mức còn 4,5%. Tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư toàn xã hội trong năm 2020 vẫn đạt mức 5,7%, bất chấp giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giảm 1,3%. Cùng với các biện pháp chống dịch bệnh hiệu quả, đây chính là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt mức 2,91% trong năm vừa qua. Mặc dù tăng trưởng kinh tế năm 2020 ở mức thấp nhất trong lịch sử kể từ khi thực hiện cải cách đến nay, nhưng vẫn thuộc nhóm cao nhất thế giới.
Lạm phát trung bình trong năm 2020 cũng chỉ tăng 3,23%, thấp hơn khá nhiều mức 4% được Quốc hội thông qua. Đây cũng được coi là một trong những thành công của các chính sách tài khóa và tiền tệ. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, kết quả này đạt được một phần đáng kể là do dịch bệnh COVID-19 đã khiến cho tổng cầu suy yếu tương đối mạnh, và do vậy lạm phát cơ bản chỉ tăng 0,99% trong 12 tháng qua. Ngoài ra, giá xăng dầu thế giới giảm mạnh cũng đóng góp một phần không nhỏ vào mức giảm của chỉ số giá tiêu dùng CPI trong năm 2020.
Hình minh họa - Nguồn: Internet |
Phóng viên: Với chính sách tỷ giá nói riêng, ông có đánh giá như thế nào? Theo ông, đâu là điểm nhấn ấn tượng nhất trong điều hành tỷ giá năm qua của Ngân hàng Nhà nước?
TS.Nguyễn Đức Độ: Kể từ năm 2012 trở lại đây, Việt Nam luôn theo đuổi mục tiêu ổn định tỷ giá với xu hướng chung là VND giảm giá nhẹ về mặt danh nghĩa so với USD, khoảng 1-2%/năm. Nhưng năm 2020 là năm ngoại lệ, khi VND lên giá nhẹ so với USD. Đây là kết quả của nhiều yếu tố:
Trước tiên, do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19, nên tổng cầu bị suy yếu nghiêm trọng, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu trong năm 2020 giảm mạnh, chỉ đạt mức 3,6%. Trong khi đó, xuất khẩu vẫn tăng trưởng tương đối khả quan, đạt mức 6,5%, nhờ đồng USD giảm giá trên thị trường thế giới dẫn đến hàng hóa Việt Nam có được một số lợi thế cạnh tranh so với hàng hóa của các nước trong khu vực. Hệ quả là thặng dư thương mại năm 2020 đã đạt mức kỷ lục, ước tính khoảng 19,1 tỷ USD và gây sức ép khiến VND lên giá. Trong bối cảnh đó, NHNN đã mua tương đối nhiều ngoại tệ nhằm giảm áp lực tăng giá đối với VND.
Phóng viên: Bên cạnh những kết quả đạt được, đâu là những khó khăn, thách thức còn tồn tại trong hệ thống tài chính – tiền tệ cần phải tiếp tục giải quyết trong năm 2021, thưa ông?
TS.Nguyễn Đức Độ: Trong năm 2021, kinh tế thế giới và trong nước được dự báo sẽ tăng trưởng khả quan hơn nhờ có vắc-xin phòng ngừa COVID-19. Bởi vậy, các khó khăn, thách thức đối với hệ thống tài chính-tiền tệ trong năm 2021 sẽ không còn lớn như trong năm 2020. Tuy nhiên, nợ xấu vẫn là vấn đề mà các NHTM phải lưu tâm. Mặc dù trong năm 2021 nền kinh tế sẽ phục hồi, nhưng nhiều ngành dịch vụ như du lịch, hàng không, nhà hàng, khách sạn sẽ vẫn còn khó khăn. Ngoài ra, nhiều khoản nợ đã được tái cơ cấu trong năm 2020 sẽ đến hạn trong năm 2021 và các NHTM cũng sẽ bắt buộc phải xử lý.
Hơn nữa, bên cạnh những khoản nợ xấu cũ còn chưa được giải quyết triệt để, rủi ro đối với các khoản cho vay mới cũng sẽ không nhỏ khi tỷ lệ tín dụng/GDP tại Việt Nam hiện đã ở mức cao, khoảng 140% GDP. Tỷ lệ này càng cao hàm ý rằng các doanh nghiệp vay nợ càng nhiều, nhưng khả năng trả nợ lại càng thấp.
Tại Việt Nam, Chính phủ luôn đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao hơn so với tăng trưởng GDP. Điển hình là trong năm 2020 vừa qua, mặc dù dịch bệnh khiến cho nhu cầu tín dụng thấp, nhưng tăng trưởng tín dụng vẫn đạt 12,13% để hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế khắc phục khó khăn thời đại dịch, cao hơn đáng kể so với mức tăng trưởng GDP danh nghĩa - tức là tăng trưởng đã bao gồm cả lạm phát. Nhưng rõ ràng là tỷ lệ tín dụng/GDP không thể tăng mãi. Đến một lúc nào đó, nó phải dừng lại, bởi nợ xấu sẽ phát sinh.
Phóng viên: Để vượt qua khó khăn, thách thức trên, theo ông, các ngân hàng Việt Nam cần có những sự chuẩn bị như thế nào?
TS.Nguyễn Đức Độ: Để giảm thiểu rủi ro nợ xấu đối với các khoản vay mới, các NHTM thời gian tới sẽ thận trọng trong việc cho vay. Mặc dù nhu cầu tín dụng của nền kinh tế trong năm sau sẽ lớn hơn so với năm nay, nhưng việc đảm bảo không hạ chuẩn tín dụng là điều kiện tiên quyết để hệ thống các tổ chức tín dụng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung phát triển bền vững trong dài hạn. Tín dụng cho các lĩnh vực có mức độ rủi ro cao như bất động sản có thể cũng sẽ được kiểm soát chặt chẽ.
Trong năm 2021, lạm phát trung bình sẽ vẫn ở mức thấp, nhiều khả năng ở dưới mức 3%. Lãi suất sẽ vẫn tiếp tục được duy trì ở mức thấp ít nhất trong nửa đầu năm 2021, khi kinh tế chưa phục hồi hoàn toàn. Chính sách lãi suất thấp sẽ kích thích tăng trưởng tín dụng, nhất là khi triển vọng kinh tế ngày càng trở nên sáng sủa.
Nhưng kể từ năm 2022, khi dịch bệnh được kiểm soát và kinh tế phục hồi, giá xăng dầu tăng, áp lực lạm phát sẽ lớn hơn và lãi suất sẽ gia tăng trở lại. Các NHTM cần chuẩn bị vốn, đặc biệt là vốn dài hạn, khi NHNN bình thường hóa lãi suất và tiến tới thắt chặt tiền tệ trong tương lai.
Phóng viên: Trước thềm năm mới 2021, ông có dự cảm như thế nào về sự phát triển của hệ thống tài chính - ngân hàng Việt Nam trong năm 2021 và những năm tiếp theo?
TS.Nguyễn Đức Độ: Như đã nói ở trên, khi quy mô tín dụng/GDP đã ở mức cao thì tốc độ tăng trưởng tín dụng sẽ chậm lại và dần dần sẽ tiệm cận tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa. Vì nền kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng dựa vào vốn, nên khi hệ thống ngân hàng không thể đáp ứng được nhu cầu về vốn cho nền kinh tế do những lo ngại về rủi ro nợ xấu, các doanh nghiệp sẽ phải tăng cường vay nợ thông qua phát hành trái phiếu. Xu hướng này đang diễn ra trong thời gian gần đây, nhất là đối với một số doanh nghiệp bất động sản.
Tuy nhiên, để thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển bền vững, Nhà nước cần có những quy định chặt chẽ về công khai hóa, minh bạch hóa thông tin đối với các doanh nghiệp, đồng thời trên cơ sở đó ban hành các quy định về xếp hạng tín nhiệm đối với các chủ thể tham gia thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Nếu thực hiện được điều này, hệ thống tài chính sẽ tiếp tục phát triển bền vững để cung cấp đủ vốn cho nền kinh tế trong tương lai.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông!