Dấu ấn Hồ Chí Minh với 70 năm xây dựng, phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam

Học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - Ngày đăng : 17:17, 01/05/2021

(thitruongtaichinhtiente.vn) - Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến đạo đức của cán bộ ngân hàng. Người luôn dặn dò cán bộ ngân hàng phải nâng cao đạo đức cách mạng và hết lòng phục vụ nhân dân.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến đạo đức của cán bộ ngân hàng. Người luôn dặn dò cán bộ ngân hàng phải nâng cao đạo đức cách mạng và hết lòng phục vụ nhân dân. Trải qua 70 năm xây dựng và phát triển ngành Ngân hàng (1951-2021), những giá trị tư tưởng, đạo đức, phong cách cùng lời căn dặn của Người vẫn còn nguyên giá trị và là kim chỉ nam cho các thế hệ cán bộ, nhân viên ngành Ngân hàng trong quá trình tu dưỡng đạo đức, năng lực chuyên môn, đoàn kết xây dựng hệ thống ngân hàng Việt Nam ngày càng vững mạnh, góp phần quan trọng vào thành công của cách mạng và quá trình xây dựng, phát triển đất nước.

Lời căn dặn của Bác Hồ với cán bộ, Đảng viên ngành Ngân hàng

Ngay từ thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc, Bác đã chỉ rõ: “ra sức hoạt động để giành lấy nền độc lập cho nước nhà” nhưng cũng “phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng”. Người yêu cầu mọi chính sách về kinh tế tài chính của Chính phủ đều phải nhằm thực hiện lợi ích của nhân dân, lợi ích của kháng chiến, kiến quốc.

Bác luôn căn dặn cán bộ, Đảng viên phải nêu gương cần, kiệm, liêm, chính. Người nói: “Khi có việc đáng làm, việc ích nước lợi dân, lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc thì dù hao tốn bao nhiêu công, tiêu hao bao nhiêu tiền của cũng sẵn sàng, nhưng khi không cần tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu, không được tiêu”. Tư tưởng, quan điểm của Bác là: "Làm ra nhiều, chi dùng ít. Không cần thì không chi dùng. Đó là tất cả chính sách kinh tế, tài chính của ta” (Tại buổi nói chuyện với Hội nghị cán bộ Đảng ngày 18/01/1949).

Trong Thư gửi Hội nghị cán bộ tài chính, ngày 20/02/1952, Bác đã đề cập rất cụ thể: “Cán bộ kinh tế - tài chính phụ trách nhiều tiền của, mà chưa hoàn toàn thông thạo việc quản lý tiền của ấy. Cho nên chúng ta cần phải ra sức học tập quản lý tài sản quốc gia mà ngành mình phụ trách. Đồng thời phải trau dồi đạo đức cách mệnh: chí công, vô tư, cần, kiệm liêm, chính. Một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự kháng chiến. Dùng cách thật thà tự phê bình và phê bình, để tẩy trừ những thói tham ô lãng phí và bệnh quan liêu, để cùng nhau tiến bộ. Chiến sĩ ta liên tiếp thắng giặc ngoài mặt trận. Tôi mong rằng: Các chú là chiến sĩ kinh tế - tài chính ở hậu phương, cũng cố gắng thi đua sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, vượt mọi khó khǎn, làm cho mặt trận kinh tế - tài chính của ta cũng thắng lợi như mặt trận quân sự”.

Như vậy, bên cạnh việc cần thiết nâng cao trình độ chuyên môn, Bác đã rất chú trọng đến yêu cầu về đạo đức đối với cán bộ ngân hàng là phải “chí công, vô tư, cần, kiệm, liêm, chính” và “tẩy trừ những thói tham ô lãng phí và bệnh quan liêu”, vì cán bộ ngân hàng phụ trách nhiều tiền của. Bác đã đề cập đến những khía cạnh hết sức cụ thể như phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn, chuyên môn, năng lực quản lý, điều hành…Quan điểm của Bác về đạo đức đối với cán bộ ngân hàng là “chí công, vô tư, cần, kiệm, liêm, chính”. Đó chính là các đức tính, phẩm chất đạo đức cần có của người cán bộ, đảng viên, cán bộ ngân hàng, nó thể hiện thông qua những hành vi cụ thể trong hoạt động công vụ, phục vụ nhân dân.

Từ những đức tính, phẩm chất đạo đức mà Bác Hồ đã căn dặn cán bộ ngân hàng, thì cán bộ, công chức, viên chức và lao động trong ngành Ngân hàng cần cụ thể hóa thành những phẩm chất đạo đức, những đức tính cần thiết đối với từng vị trí công tác, trong từng giai đoạn cụ thể, để nêu cao phẩm chất đạo đức trong việc triển khai, xử lý và thực thi công việc.

Tư tưởng, đạo đức và lời căn dặn của Bác Hồ - kim chỉ nam cho hoạt động ngân hàng Việt Nam

Bên cạnh những lời căn dặn ân tình của Bác, tấm gương của Người về lối sống giản dị, thanh bạch, hết lòng vì nước vì dân đã trở thành kim chỉ nam cho quá trình hoạt động, tu dưỡng đạo đức, phụng sự tổ quốc, nhân dân của các thế hệ cán bộ, Đảng viên ngành Ngân hàng trong suốt chiều dài lịch sử 70 năm xây dựng và phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam (từ năm 1951), qua đó đóng góp quan trọng cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam, cho quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Mỗi giai đoạn xây dựng và phát triển của ngành Ngân hàng đều ghi đậm dấu ấn Hồ Chí Minh với những bài học về tư tưởng, đạo đức, phong cách, lối sống của Người.

“Dựa vào sức dân, tạo lập niềm tin nơi dân”

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (tháng 2/1951) đề ra chủ trương, chính sách mới về kinh tế - tài chính, trong đó chỉ rõ: Chính sách tài chính phải kết hợp chặt chẽ với chính sách kinh tế; thành lập Ngân hàng Quốc gia, phát hành đồng bạc mới để ổn định tiền tệ, cải tiến chế độ tín dụng. Thực hiện chủ trương đó, ngày 6/5/1951, tại hang Bòng thuộc xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 15-SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, với những nhiệm vụ chủ yếu là: Quản lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ; quản lý Kho bạc Nhà nước; huy động vốn và cho vay phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hóa; quản lý hoạt động kim dung bằng biện pháp hành chính; quản lý ngoại hối và đấu tranh tiền tệ với địch.

Sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ngày 6/5/1951 là bước ngoặt lịch sử trong quá trình phát triển hệ thống tiền tệ - ngân hàng Việt Nam. Hoạt động của Ngân hàng Quốc gia trong thời kỳ này đã góp phần rất quan trọng củng cố hệ thống tiền tệ độc lập, tự chủ của đất nước, phát triển sản xuất, lưu thông hàng hóa, tăng cường lực lượng kinh tế quốc doanh, phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp.

Trách nhiệm với Tổ quốc, dân tộc là thiêng liêng, cao cả, nên dù cho mọi việc khi ấy đều mới mẻ trong vô vàn khó khăn, mọi điều kiện vật chất kỹ thuật đều thiếu thốn, thô sơ, nhưng với tinh thần xả thân, những người khai phá mở đường của hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn  hăng hái xông pha xây dựng những nền móng ban đầu của tổ chức, quyết tâm hình thành một thể chế quản lý theo quy luật của khoa học tiền tệ, chấm dứt thời kỳ phải gắn tài chính với ngân hàng, phải in tiền để chi tiêu. Thời kỳ này, những cán bộ đầu tiên của ngành Ngân hàng phải vừa làm vừa học, nhanh chóng bám theo các yêu cầu và nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc, sẵn sàng đối mặt với thách thức lớn từ một nền kinh tế tiểu nông lạc hậu, lại đang phải gồng mình trước cuộc kháng chiến toàn dân.

Với những nỗ lực cố gắng của đội ngũ cán bộ Ngân hàng Quốc gia mà chỉ sau một thời gian ngắn, đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực toàn diện, từ phát hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi tiền tài chính đến củng cố các đồng tiền khu vực, tạo ra sự thay đổi về chất của hệ thống tiền tệ: từ tiền quốc khố, ngân sách trở thành tiền tín dụng.

Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, trong công tác tài chính ngân hàng, sự gắn bó giữa hai nguyên tắc: vì dân và do dân đã trở thành kim chỉ nam luôn đúng. Cách mạng rất cần tiền nhưng càng cần lòng dân hơn nữa. Đặc biệt trong một thời kỳ dài, tại những vùng hậu địch, một lượng tiền lớn từ ngân hàng len lỏi, nằm trong chính nhân dân, và thường gọi là “ngân hàng không khóa”. Tất cả các khoản tiền đều được gửi để nhân dân giữ hộ, khi cần thì mới thu lại. Khi thiếu tiền thì viết giấy vay của nhân dân, hẹn kháng chiến thành công sẽ trả. Vậy mà, tất cả những số tiền đó đã được giữ trọn vẹn, không thiếu một đồng, một xu.

Có lẽ chẳng có ở nơi nào, mà chỉ ở Việt Nam mới tồn tại những "ngân hàng không khóa" như thế. Chính nhờ biết dựa vào dân, tạo lập niềm tin nơi nhân dân, những căn cứ địa trong hậu địch trở thành những căn cứ thép vô hình khiến quân giặc và Việt gian không thể ngờ tới. Những đồng tiền Cụ Hồ như những giọt máu hồng được nhân dân tin tưởng, nâng niu mà chảy khắp mọi miền, cùng nhân dân tăng gia sản xuất và cùng góp nguồn lực tài chính phục vụ cách mạng.

Cuộc kháng chiến 9 năm kết thúc với chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu. Ngày 10/10/1954, giặc Pháp buộc phải cuốn gói ra khỏi Thủ đô. Chính quyền ta tiếp quản Ngân hàng Đông Dương ở Hà Nội và chính thức đặt tại đó trụ sở làm việc của Ngân hàng Quốc gia. Đi cùng các đơn vị bộ đội hùng dũng qua các cửa ô vào tiếp quản thủ đô được nhân dân nô nức đón chào là hơn 300 cán bộ ngân hàng tiến vào thành phố và tỏa ngay về các điểm đặt bàn đổi tiền, tuyên truyền chính sách thu đổi nhằm mục đích bài trừ, quét sạch tiền Đông dương. Vậy là quân Pháp rút đến đâu, tiền Việt Nam chiếm lĩnh, lan toả rộng khắp tới đó. Chỉ một tháng sau, tiền Việt Nam đã hoàn toàn làm chủ thị trường tiền tệ Hà Nội và miền Bắc.

Bài học quý giá từ tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn này chính là dựa vào sức dân, tạo lập niềm tin nơi dân. Đây cũng bài học kinh nghiệm mà các nhà lãnh đạo kiệt xuất trong lịch sử dân tộc luôn coi trọng và áp dụng trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Dựa vào dân chính là cội nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng vẻ vang của dân tộc và luôn được áp dụng trong suốt chiều dài của quá trình lịch sử từ thời chiến cho đến thời bình. Đặc biệt trong hoạt động ngân hàng thì việc lấy dân làm gốc, luôn tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người dân (người sử dụng dịch vụ ngân hàng), tạo dựng niềm tin nơi dân, nâng cao được niềm tin người dân đối với ngân hàng càng quan trọng. Nhờ đó sẽ góp phần giữ ổn định thị trường tiền tệ, ổn định vĩ mô.

Lòng yêu nước, sự mưu trí, dũng cảm để vượt qua thử thách

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (20/7/1954), 2 miền Nam-Bắc tạm thời bị chia cắt. Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định đường lối chung của Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.

Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã tiến hành thu hồi tiền địch ở vùng mới giải phóng, thiết lập thị trường tiền tệ thống nhất trên miền Bắc. Mạng lưới ngân hàng được mở rộng tới các huyện, quận, thị xã; đội ngũ cán bộ được tăng cường, nâng cao trình độ. Ngày 26/10/1961, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Trong giai đoạn 1955-1965, hoạt động tín dụng được đẩy mạnh để đáp ứng yêu cầu khôi phục kinh tế, phục vụ yêu cầu hợp tác hóa và đẩy mạnh sản xuất tiểu thủ công nghiệp, phát triển kinh tế quốc doanh. Cũng trong giai đoạn này, Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được thành lập và đi vào hoạt động. Đến cuối năm 1964, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có quan hệ hợp tác với 265 ngân hàng tại 41 nước trên thế giới.

Giai đoạn 1965 – 1975, Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, chiến sự diễn ra rất ác liệt, mọi hoạt động của Ngân hàng Nhà nước phải chuyển hướng để phù hợp với hoàn cảnh thời chiến. Ngân hàng Nhà nước đã cải tiến và mở rộng các quan hệ tín dụng, thanh toán, quản lý tiền mặt, quản lý quỹ ngân sách nhà nước, giúp các xí nghiệp sơ tán và phân tán sản xuất, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh; tiếp tục đẩy mạnh tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể; tích cực khai thác các nguồn ngoại tệ cho Nhà nước, bảo đảm thanh toán quốc tế thông suốt, đáp ứng yêu cầu sản xuất, chiến đấu và đời sống.

Có thể nói, thời kỳ này, hoạt động tiền tệ-ngân hàng trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn khi phải đồng thời phục vụ nhiệm vụ vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Giá trị tư tưởng, đạo đức của Bác Hồ được cán bộ, Đảng viên ngành Ngân hàng luôn vận dụng chính là lòng yêu nước, sự mưu trí, lòng dũng cảm, trung thành theo lý tưởng cách mạng, nhờ đó đã vượt qua gian nan, thử thách, duy trì hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh toán thông suốt, góp phần không nhỏ vào thắng lợi của cách mạng.

Tiếp quản, thống nhất

Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, nước ta bước sang một thời kỳ mới: thời kỳ hoà bình, độc lập, thống nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách để khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội sau chiến tranh. Ngành Ngân hàng đã khẩn trương tiếp quản và cải tạo hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở miền Nam, xây dựng hệ thống ngân hàng mới của chính quyền cách mạng, thực hiện thống nhất tiền tệ trong cả nước; ban hành và thực hiện nhiều biện pháp về tiền tệ, tín dụng, quản lý ngoại hối, thanh toán để góp phần ổn định tình hình kinh tế và lưu thông tiền tệ, đáp ứng nhu cầu vốn và tiền mặt cho sản xuất, quốc phòng, an ninh và đời sống kinh tế-xã hội; mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế cho công cuộc tái thiết đất nước.

Để thống nhất tiền tệ trên cả nước, ngày 1/4/1978, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 08/NQ-TW về việc phát hành tiền ngân hàng mới, thu hồi tiền cũ ở cả hai miền. Ngày 2/5/1978, Ngân hàng Nhà nước bắt đầu phát hành tiền mới, thu hồi tiền cũ trên cả nước.

Cuộc thu đổi tiền tháng 9/1985 là chính sách kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực phân phối lưu thông, một bộ phận trong kế hoạch tổng điều chỉnh giá - lương - tiền nhằm ổn định sức mua của đồng tiền, phục vụ công cuộc xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa.

Tư duy đột phá, chuyển mình đổi mới, hội nhập quốc tế

Thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để theo Nghị quyết Đại hội Đảng VI và các Nghị quyết Đại hội Đảng sau đó, công cuộc đổi mới đất nước được triển khai mạnh mẽ, nền kinh tế chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh đó, có rất nhiều khó khăn và cơ hội đan xen, cần có sự quyết đoán để thay đổi về mô hình, cơ cấu tổ chức hoạt động. Cán bộ, Đảng viên ngành Ngân hàng đã chứng tỏ được bản lĩnh, tư duy dám nghĩ dám làm. Cụ thể, sau một thời gian tiến hành làm thử việc chuyển hoạt động ngân hàng sang kinh doanh XHCN, ngày 26/3/1988, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 53/HĐBT với định hướng cơ bản là “chuyển hẳn hệ thống ngân hàng sang hoạt động kinh doanh”. Tổ chức, bộ máy của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được kiện toàn, sắp xếp lại để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, đồng thời làm chức năng ngân hàng của các ngân hàng; các ngân hàng chuyên doanh thực hiện nhiệm vụ kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Theo đó, 4 ngân hàng chuyên doanh được thành lập trên cơ sở chuyển và tách ra từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, gồm: Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nông nghiệp, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.

Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước thông qua 2 Pháp lệnh Ngân hàng. Hệ thống ngân hàng bắt đầu quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, căn bản và toàn diện phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Đảng, Nhà nước.

Năm 1997, Quốc hội thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng, tạo nền tảng pháp lý căn bản hơn cho hệ thống ngân hàng tiếp tục đổi mới phù hợp với cơ chế thị trường và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO (cuối 2006), hoạt động ngân hàng tiếp tục có nhiều đổi mới về điều hành, thể chế, cơ chế nghiệp vụ, công nghệ. Tháng 6/2010, tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng mới, tạo nền tảng pháp lý cho việc tiếp tục đổi mới hoạt động ngân hàng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Ứng phó linh hoạt trước khủng hoảng, ổn định thị trường, hoàn thiện thể chế

Trước những diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động và linh hoạt, từ ưu tiên kiềm chế lạm phát cao năm 2008 sang tập trung ngăn chặn suy giảm kinh tế năm 2009, khôi phục đà tăng trưởng năm 2010 và kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong năm 2011, 2012.

Đặc biệt, từ năm 2011 - 2015, điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có những đổi mới căn bản, thể hiện rõ tính chủ động, dẫn dắt thị trường và đạt được kết quả tích cực góp phần quan trọng kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Đáng chú ý, thị trường ngoại hối và thị trường vàng được quản lý chặt chẽ và ổn định, tình trạng “đô la hóa” và “vàng hóa” trong nền kinh tế bị đẩy lùi.

Thực hiện nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã xây dựng và trình Chính phủ phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) giai đoạn 2011-2015 (Quyết định 254/QĐ-TTg ngày1/3/2012), Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD (Quyết định 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013). Quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD và xử lý nợ xấu được hệ thống Ngân hàng triển khai quyết liệt theo đúng định hướng, lộ trình và cơ bản đạt được mục tiêu đề ra: các TCTD yếu kém được kiểm soát, những tồn tại, yếu kém của hệ thống ngân hàng từng bước được xử lý; nợ xấu được kiềm chế và xử lý từng bước; hệ thống Ngân hàng tiếp tục tăng trưởng và đóng góp quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Cũng trong giai đoạn này, nhằm hướng cán bộ, công chức, viên chức và lao động trong ngành Ngân hàng rèn luyện đạo đức, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Quyết định số 973/QĐ-NHNN ngày 19/5/2006 về Chương trình hành động của ngành Ngân hàng về thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng. Trong Chương trình có các quy định cụ thể trong các lĩnh vực: công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn trong các Vụ, Cục, đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước, các doanh nghiệp trực thuộc Ngân hàng Nhà nước, TCTD, Ngân hàng Chính sách xã hội, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam; thực hiện nghiêm túc quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức; thực hiện minh bạch về tài sản, thu nhập.

Hướng đến hệ thống ngân hàng hiện đại, phát huy vai trò huyết mạch của nền kinh tế

Trong giai đoạn 2016-2020, ngành Ngân hàng triển khai nhiệm vụ trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường: sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4; thị trường kinh tế, tiền tệ toàn cầu và trong nước có nhiều biến động; căng thẳng thương mại giữa các nước lớn, chủ nghĩa bảo hộ thương mại gia tăng, kinh tế thế giới tăng trưởng chậm và tác động nặng nề chưa từng có của đại dịch COVID-19.

Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự chỉ đạo quyết liệt của Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, sự đồng lòng, quyết tâm của cả hệ thống tổ chức tín dụng từ trung ương đến địa phương, sự ủng hộ của các tầng lớp trong xã hội, ngành Ngân hàng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được Đảng, Nhà nước giao, đóng góp xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Theo đó, thể chế pháp luật về tiền tệ, hoạt động ngân hàng từng bước được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và chuẩn mực, thông lệ quốc tế để bảo đảm hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, từng bước áp dụng chuẩn mực tiền tệ quốc tế vào hoạt động ngân hàng, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền... Theo đó, NHNN đã chủ động tham mưu, trình Chính phủ trình Quốc hội thông qua Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD (Luật số 17/2017/QH14);  Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã trình Chính phủ/Thủ tướng Chính phủ ban hành 15 Nghị định, 04 Quyết định; ban hành 161 Thông tư.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành đồng bộ, linh hoạt chính sách tiền tệ, ngoại hối phù hợp với diễn biến thị trường; đảm bảo ổn định thanh khoản của hệ thống; duy trì ổn định và giảm mặt bằng lãi suất trong bối cảnh thị trường thế giới có nhiều sức ép. Tăng trưởng tín dụng phù hợp đi đôi với đảm bảo chất lượng và nhu cầu tăng trưởng nền kinh tế. Ổn định vững chắc tỷ giá và thị trường ngoại tệ, quy mô dự trữ ngoại hối nhà nước tăng cao kỷ lục.

Đặc biệt, trước những diễn biến phức tạp và tác động tiêu cực của dịch COVID-19, với tinh thần đồng hành, chia sẻ khó khăn với người dân, doanh nghiệp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã khẩn trương xây dựng, ban hành một số văn bản mang tính đột phá về cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân khắc phục khó khăn, giảm thiểu thiệt hại, góp phần duy trì sản xuất kinh doanh như Thông tư 01/2020/TT-NHNN, Thông tư 04/2020/TT-NHNN, theo đó, khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vay, giảm 50% phí dịch vụ thanh toán trong nước qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng... Đồng thời, ngành Ngân hàng cũng tích cực triển khai các chương trình an sinh xã hội, hỗ trợ kịp thời bà con vùng bị thiệt hại do thiên tai, bão lũ, hoặc có hình thức về hoãn, giãn nợ cho người dân khi gặp khó khăn do hoàn cảnh khách quan...Vốn tín dụng ngân hàng đã vươn tới khắp các bản làng, thôn xóm, góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng nông thôn mới, tái cơ cấu nông nghiệp nông thôn và xóa đói giảm nghèo.

Những năm gần đây, nguồn vốn tín dụng ngân hàng góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, thể hiện qua tăng trưởng GDP của Việt Nam duy trì ở mức cao so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới (chẳng hạn năm 2017 đạt 6,81%, năm 2018 đạt 7,08%, năm 2019, GDP đạt 7,02%, năm 2020 mặc dù ảnh hưởng bởi thiên tai và dịch bệnh Covid-19 nhưng vẫn đạt 2,91%, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế giới).

Có thể nói, với các giải pháp, nỗ lực của ngành ngân hàng trong thời gian qua, vốn tín dụng cơ bản đã đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống cho người dân, doanh nghiệp, là kênh dẫn vốn chủ yếu cho nền kinh tế; khả năng tiếp cận vốn của người dân, doanh nghiệp được cải thiện; góp phần tích cực hạn chế người dân tìm đến các nguồn “tín dụng đen”; hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế. 

Bên cạnh đó, hoạt động thanh toán được mở rộng cả về quy mô và chất lượng. Hành lang pháp lý cho thanh toán không ngừng hoàn thiện, tạo điều kiện phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng trên nền tảng công nghệ 4.0, thí điểm các mô hình thanh toán mới, gia tăng giá trị cho khách hàng sử dụng dịch vụ, bảo đảm an ninh, an toàn hoạt động thanh toán, thanh toán không dùng tiền mặt phát triển.

Công tác thanh tra, giám sát ngân hàng không ngừng được củng cố, tăng cường và nâng cao hiệu quả. Tái cơ cấu và xử lý nợ xấu được triển khai quyết liệt nhằm nâng cao năng lực tài chính, quản trị, đảm bảo an toàn hoạt động cho các TCTD và đóng góp tích cực vào quá trình tái cơ cấu nền kinh tế. Nhờ đó, năng lực tài chính của các TCTD được củng cố, vốn điều lệ tăng dần qua các năm, các tổ chức tín dụng chú trọng hơn trong quản trị rủi ro và tăng cường minh bạch thông tin theo quy định của pháp luật. Nghị quyết 42 đã tạo bước đột phá, giúp xử lý nợ xấu thực hiện tốt, đưa tỷ lệ nợ xấu toàn ngành xuống dưới 3%.

Đặc biệt, công tác truyền thông, giáo dục tài chính ngành Ngân hàng ngày càng chuyên nghiệp, bài bản, với các hình thức và phương pháp phong phú, ứng dụng công nghệ hiện đại, trong đó đối tượng ưu tiên là những người nghèo, đối tượng chính sách, người yếu thế hoặc chưa có tài khoản ngân hàng, giới trẻ…Qua đó nhằm nâng cao, kiến thức, kỹ năng sử dụng dịch vụ tài chính ngân hàng đối với công chúng, góp phần thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt và tài chính toàn diện. Công tác truyền thông ngành Ngân hàng cũng luôn vận dụng một cách khéo léo, nhuần nhuyễn tư tưởng và lợi căn dặn của Hồ Chủ tịch đối với người làm công tác báo chí. Những lời căn dặn của Người luôn là kim chỉ nam cho hoạt động truyền thông, giáo dục tài chính, trong đó hướng tới đối tượng là đa số công chúng, cách thể hiện cũng thật đơn giản, dễ hiểu, gần gũi, chính xác, từ đó đưa các chính sách, thông điệp về tài chính tới công chúng một cách hiệu quả nhất.

Trong giai đoạn hiện nay, đạo đức ngân hàng càng được quan tâm vì trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, rủi ro đạo đức là điều luôn thường trực. Do đó, trong ngành Ngân hàng Việt Nam, các đơn vị, tổ chức tín dụng đều xây dựng những chuẩn mực, hoặc quy chuẩn đạo đức nghề nghiệp của đơn vị, hệ thống mình, góp phần vào việc xây dựng và phát triển thương hiệu. Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cũng ban hàng Bộ Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử của cán bộ ngân hàng, là những yêu cầu mang tính cốt lõi đối với người cán bộ ngân hàng để rèn luyện, tu dưỡng thường xuyên.

Cán bộ và nhân viên ngành Ngân hàng đã không ngừng trau dồi chuyên môn, tu dưỡng đạo đức theo tấm gương Hồ Chí Minh để phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng của người dân, doanh nghiệp, đưa sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến mọi tầng lớp nhân dân, qua đó góp phần xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy tài chính toàn diện theo mục tiêu mà Chính phủ đề ra. Niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng ngày càng được nâng cao, các tổ chức quốc tế cũng đánh giá cao điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.

Với những đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, ngành Ngân hàng đã vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng (2006), Huân chương Hồ Chí Minh (1996 và 2011, 2016). Ba đơn vị được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân do có thành tích đặc biệt xuất sắc trong kháng chiến chống Mỹ là Ban Tài chính đặc biệt (N2683), Quỹ đặc biệt (B29), Ban Ngân khố tín dụng R (C32). Nhiều tập thể, cá nhân trong Ngành được Đảng, Nhà nước tặng thưởng các danh hiệu cao quý khác: Anh hùng lao động, Huân chương, Huy chương, Bằng khen các cấp.

Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã trở thành tài sản tinh thần quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam và của toàn dân tộc Việt Nam. Những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ ngân hàng, đối với ngành Ngân hàng Việt Nam luôn được các thế hệ cán bộ ngân hàng ghi nhớ và lấy làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Trong giai đoạn hiện nay, những lời dạy của Bác vẫn còn nguyên giá trị và càng quý giá hơn bao giờ hết, để cán bộ ngân hàng tu dưỡng, học tập và rèn luyện đạo đức theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phần xây dựng ngành Ngân hàng phát triển bền vững, xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như mong muốn của Người.

Tài liệu tham khảo:

- Lịch sử ngân hàng Việt Nam 1951-2016, NXB. Lao động, Hà Nội, 2011.

 

Phương Chi