Bộ trưởng Đào Ngọc Dung: Chính sách an sinh xã hội đã được thực hiện tốt
Tin tức - Ngày đăng : 10:30, 09/11/2021
Thực hiện Chương trình Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV, chiều ngày 8/11, sau khi các đại biểu Quốc hội tiến hành thảo luận toàn thể tại Hội trường, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung giải trình, làm rõ một số nội dung trong Phiên thảo luận về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung giải trình tại Phiên họp |
Tại phiên thảo luận, các đại biểu đã quan tâm nhiều đến lĩnh vực lao động, người có công và an sinh xã hội với 05 nội dung lớn: các chính sách về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội; vấn đề phát triển các trụ cột chính của an sinh xã hội là bảo hiểm xã hội; vấn đề chăm lo các đối tượng yếu thế; kết quả triển khai các gói hỗ trợ; vấn đề đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, nguồn lao động và chăm lo phục hồi thị trường lao động.
Giải trình, làm rõ những nội dung đại biểu Quốc hội quan tâm, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cho biết, đối với vấn đề về đánh giá và nhìn nhận an sinh xã hội ở Việt Nam, thời gian vừa qua, chúng ta luôn kiên định nguyên tắc phát triển kinh tế đi đôi với đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, không hy sinh công bằng xã hội để phát triển kinh tế đơn thuần.
Do đó, hệ thống an sinh xã hội thời gian qua cơ bản là đáp ứng được các yêu cầu và thực hiện một quyền an sinh của người dân, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế và chỉ số phát triển con người tăng trưởng nhanh theo đánh giá và xếp hạng của Liên hợp quốc. Hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam cũng đã từng bước hình thành ba chức năng cơ bản là phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro.
Đối với vấn đề về ban hành và triển khai các chính sách hỗ trợ thời gian vừa qua, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết, cơ bản chúng ta đã tương đối chủ động, thực hiện bài bản theo lộ trình đi đôi với xử lý linh hoạt các phát sinh tình huống cụ thể. Ví dụ, đối với người yếu thế, ngay từ đầu năm chúng ta chủ động để ban hành Nghị định thay thế để nâng mức hỗ trợ bình quân cho người yếu lên gấp 3 lần, cá biệt có những đối tượng nâng lên 100%. Đối với người có công, Chính phủ đã ban hành Nghị định 75/2021/NĐ-CP và đảm bảo 7/12 nhóm đối tượng được nâng mức hỗ trợ hàng tháng.
Đồng thời, chúng ta đang triển khai khẩn trương các chính sách giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, đảm bảo đúng tiến độ mà Quốc hội quy định; tiến hành điều chỉnh các chính sách tiền lương đối với hưu trí, nhất là quan tâm đến lực lượng hưu trí trước năm 1995, người có lương hưu thấp.
Trong công tác phòng, chống dịch COVID-19, Đảng, Nhà nước, đặc biệt trực tiếp là Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ đã chỉ đạo ban hành nhiều các chính sách hỗ trợ. TP. Hồ Chí Minh, TP. Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai và một số tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách với các gói ngân sách lớn, hàng triệu túi an sinh để đảm bảo an sinh xã hội, đảm bảo người dân an tâm ở nhà để tham gia phòng, chống dịch; thực hiện phương châm là an sinh xã hội là trọng yếu, là nhiệm vụ thường xuyên. Trong bối cảnh đó, chúng ta ban hành 3 gói chính sách lớn, nhiều chính sách chưa có tiền lệ và những giải pháp tình thế trong bối cảnh đặc biệt để kịp thời đáp ứng các yêu cầu cấp bách.
Cho đến nay, tuy còn nhiều hạn chế, khuyết điểm nhưng 3 gói chính sách đã cho thấy một số kết quả: Gói hỗ trợ theo Nghị quyết 42/NQ-CP đã có trên 14 triệu đối tượng thụ hưởng; gói hỗ trợ theo Nghị quyết 68/NQ-CP qua 4 tháng triển khai đã hỗ trợ cho 26,71 triệu đối tượng thụ hưởng; gói hỗ trợ cho người lao động và sử dụng lao động từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp theo Nghị quyết của Chính phủ và Quốc hội đã rà soát, hỗ trợ 363 nghìn người sử dụng lao động, hỗ trợ tiền từ kết dư quỹ bảo hiểm cho trên 8 triệu người lao động.
Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức, nhất là trong bối cảnh diễn biến dịch bệnh phức tạp, nhưng các chính sách của Nhà nước, các gói hỗ trợ của địa phương và vận động nguồn lực xã hội, của nhân dân đã giúp chính sách an sinh xã hội đã được thực hiện tốt.
Đối với vấn đề về thị trường lao động, tuy đại dịch đã ảnh hưởng rất lớn đến thị trường lao động nhưng sau hơn một tháng thực hiện thích ứng linh hoạt, an toàn, hiệu quả, tình hình lao động đang có tiến triển rất khả quan. Theo báo cáo tại các tỉnh phía Nam và kiểm tra thực tế, hiện nay phục hồi sản xuất trong các khu công nghiệp chế xuất từ 50 đến 80%; số lao động phục hồi hiện nay 70% đến 75%, cá biệt có địa phương tới 90%.
Bộ trưởng cho biết, so với nhu cầu và yêu cầu đáp ứng đơn hàng thì còn thiếu lực lượng lao động nhưng không đến mức trầm trọng trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, do đã chủ động những giải pháp nhất định, các địa phương cũng từng bước phục hồi sản xuất, vừa đảm bảo sản xuất, vừa an toàn và chưa sử dụng hết công suất. Theo dự báo, đến hết quý I/2022 và đầu quý II/2022, nếu không có diễn biến phức tạp, khả năng phục hồi trở lại thị trường lao động như bình thường có thể đáp ứng được.
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cũng cho biết, Bộ đã chủ trương báo cáo Chính phủ và xây dựng chương trình phục hồi và phát triển thị trường lao động đi đôi với vấn đề an sinh xã hội bao gồm hai giai đoạn: giai đoạn phục hồi và giai đoạn bứt phá.
Với những cơ chế, chính sách đề xuất, chương trình tập trung 7 vấn đề lớn: hỗ trợ trực tiếp tiền mặt cho một số đối tượng, lực lượng lao động để góp phần phục hồi, kích cầu tiêu dùng; hỗ trợ hộ kinh doanh, người lao động vay vốn ưu đãi, khôi phục, duy trì phát triển sản xuất, giải quyết việc làm; nâng cao hiệu quả ứng dụng về dịch vụ công, việc làm hiệu quả, đổi mới cung cầu lao động, phát triển lao động trực tuyến, giao dịch việc làm, kết nối việc làm; hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại, phát triển hệ thống đào tạo chất lượng cao; đầu tư phát triển các cơ sở, chăm lo đối tượng yếu thế, tổn thương vì dịch bệnh; hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động, chuyển đổi số trong lĩnh vực dân cư và kết nối với lao động; tập trung chăm lo phát triển nhà ở xã hội cho người nghèo, công nhân và những người lao động ở các khu nhập cư.