Cần quan điểm mở hơn đối với “room" ngoại cho ngân hàng

Vấn đề - Nhận định - Ngày đăng : 14:23, 17/12/2021

(thitruongtaichinhtiente.vn) - Tại Hội thảo công bố báo cáo “Nghiên cứu tính cần thiết của việc điều chỉnh tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại Việt Nam” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) vừa tổ chức, các chuyên gia cho rằng, nới "room" ngoại tại ngân hàng là cần thiết, song phải đảm bảo hài hòa lợi ích, nhu cầu của các nhà đầu tư với yêu cầu quản lý nhà nước.

Hình minh họa - Nguồn: Internet

Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 20/11/2021, vốn đăng ký cấp mới đạt 14,06 tỷ USD, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm 2020; vốn đăng ký tăng thêm ở 877 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đạt 8,02 tỷ USD, tăng 26,7%.

Một số chuyên gia cho rằng thu hút đầu tư nước ngoài sẽ khó có hiệu quả nếu các nhà cung cấp dịch vụ hạ tầng của Việt Nam không cải thiện năng lực quản trị và năng lực cung ứng (về cả chất và lượng). Yêu cầu càng cấp thiết hơn đối với khu vực dịch vụ hiện đại, có hàm lượng giá trị gia tăng cao như ngân hàng.

Nới "room" ngoại là cấp thiết

Dù nhận thức yêu cầu trên, nhiều NHTM đã lên phương án phát hành cổ phiếu, giao dịch trên sàn chứng khoán. Không ít NHTM đã nâng tỷ lệ vốn bán cho nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật.

Số liệu thống kê được công bố tại hội thảo cho biết, đến ngày 30/6/2021 có 19 TCTD có cổ đông là tổ chức nước ngoài sở hữu trên 1% vốn điều lệ của TCTD, trong đó ngân hàng TMNN có 3/4 ngân hàng và ngân hàng TMCP là 16/28 ngân hàng, có 11 TCTD có tỷ lệ sở hữu cổ phần của tổ chức nước ngoài trên 15%, 5 TCTD có tỷ lệ sở hữu cổ phần của tổ chức nước ngoài trên 25%. Các ngân hàng có phát sinh sở hữu của tổ chức nước ngoài trong giai đoạn 2018 - tháng 6/2021 gồm: BIDV (KEB Hana sở hữu 15%), MSB (8 tổ chức sở hữu 28,22%), VPBank (9 tổ chức sở hữu 13,33%), LienVietPostBank (1 tổ chức, sở hữu 2,1%), Saigon Bank (01 tổ chức, sở hữu 4,94%).

Thực tế hiện nay cho thấy, các TCTD đang có nhu cầu tăng tỷ lệ sở hữu của các cổ đông nước ngoài, đặc biệt theo nhu cầu tăng vốn để tiếp tục thực hiện tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu tại các TCTD. Một số NHTM cổ phần đã và đang làm tốt việc tăng vốn chủ sở hữu từ các cổ đông nước ngoài. Một số ngân hàng khác cũng đang tìm kiếm, lựa chọn, đàm phán tìm cổ đông chiến lược. Với những NHTM có cổ đông chiến lược nước ngoài đều có cải thiện đáng kể về chất lượng quản trị, tính minh bạch trong hoạt động, sức cạnh tranh…

Chia sẻ tại Hội thảo công bố báo cáo “Nghiên cứu tính cần thiết của việc điều chỉnh tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại Việt Nam” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), ông Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV cho biết, việc các NHTM phải tiếp tục nhu cầu tăng vốn chủ sở hữu, đáp ứng tiêu chuẩn Basel II và tới đây là Basel III, đặc biệt là trong bối cảnh Hệ số an toàn vốn CAR của Việt Nam còn thấp hơn so với khu vực, thì yêu cầu cần nâng tỷ lệ giới hạn tỷ lệ sở hữu cho nhà đầu tư nước ngoài càng đặt ra cấp thiết để tạo thêm nhiều cơ hội cho các NHTM có thể tìm kiếm các đối tác chiến lược, góp phần thực hiện mục tiêu tăng vốn trong thời gian tới.

Nhu cầu tìm kiếm đối tác chiến lược là rất lớn. Tuy nhiên việc tìm kiến đối tác chiến lược không dễ, nhất là khi đã tìm ra rồi, các ngân hàng lại vướng quy định về giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài. Bởi theo Nghị định số 01/2014/NĐ-CP về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của TCTD Việt Nam quy định tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn điều lệ của một NHTM Việt Nam. Ngoài ra còn có các giới hạn cụ thể đối với tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư cá nhân nước ngoài, tổ chức nước ngoài; nhà đầu tư chiến lược nước ngoài; nhà đầu tư nước ngoài và người có liên quan.

Trong các điều ước đã ký kết, Việt Nam chưa cam kết tăng giới hạn sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài lên cao hơn mức 30%. Ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết, nội dung mở nhất trong EVFTA cũng chỉ là Việt Nam sẽ cân nhắc tích cực đề xuất của các định chế tài chính EU về việc cho phép nắm giữ tối đa 49% vốn điều lệ của hai NHTM của Việt Nam (trừ BIDV, VietinBank, Vietcombank và Agribank) trong vòng 5 năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực. Đến nay vẫn chưa có bất kỳ thông tin nào về đề xuất như vậy từ phía các định chế tài chính của EU.

Cần quan điểm và định hướng rõ ràng hơn

Để có thể đưa ra cơ sở chuẩn xác cho việc đề xuất xem xét nới tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng, ông Cấn Văn Lực cho rằng, trước hết Chính phủ cần sớm thông qua Đề án Cơ cấu lại tổ chức tín dụng. Đề án này cần định hướng rõ ràng định hướng quan trọng về sở hữu nước ngoài tại các ngân hàng nhà nước lớn hiện nay. Đồng thời, cần đẩy nhanh việc sửa Luật bảo hiểm tiền gửi, Luật các tổ chức tín dụng nhằm tháo gỡ nhiều vướng mắc về tổ chức tín dụng và Luật Ngân hàng nhà nước. Đặc biệt, cần nhất quán tỷ lệ sở hữu của nhà nước và nước ngoài tại 4 ngân hàng nhà nước lớn để nhà đầu tư nước ngoài có cơ sở định hướng chiến lược đầu tư.

Bên cạnh đó, cần cân nhắc có nhất thiết đề xuất nâng tỷ lệ room cứng từ 30% lên 35% hay không. “Chúng ta mong muốn có trung tâm tài chính tại TP. Hồ Chí Minh, song cần chứng minh tính khả thi của mong muốn đó. Nếu cứ theo mong muốn chủ quan và nới room ra, sau đó khối ngoại không hết tỷ lệ sở hữu vì các lý do này khác thì kiến nghị nới room cũng không hợp lý. Chưa kể sắp tới hệ thống ngân hàng phải đẩy mạnh tái cấu trúc lại các tổ chức yếu kém. Liệu nhà đầu tư ngoại có mặn mà tham gia 35- 49% hay không? Theo tôi, quan điểm phải mở hơn đối với các ngân hàng này, cần có sự gặp nhau hài hòa của cả cung và cầu. Kiến nghị nâng room trong các trường hợp này là khó, nên cần lập luận sắc sảo hơn”, ông Lực khuyến nghị.

Còn theo ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư Ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, việc xem xét tăng tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài là cần thiết, song phải đảm bảo hài hòa lợi ích, nhu cầu của các nhà đầu tư với yêu cầu quản lý nhà nước. Đồng thời, cần có giải pháp mạnh hơn để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém. Chính phủ có thể có cơ chế đặc thù về sở hữu cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài cho phép ngân hàng nước ngoài mua ngân hàng yếu kém để trở thành ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam...

Cũng theo ông Nguyễn Quốc Hùng, để tạo điều kiện cho NHTM tiếp cận các nhà đầu tư chiến lược tiềm năng, thì cần hoàn thiện khung pháp lý theo hướng phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, ổn định lâu dài, nhất quán. Quan điểm của ông Hùng là chính sách rõ ràng, nhất quán ngay từ đầu sẽ hỗ trợ rất nhiều cho các NHTM đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu, hội nhập.

Từ nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia và thực tế tại Việt Nam, Báo cáo “Nghiên cứu tính cần thiết của việc điều chỉnh tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại Việt Nam” của CIEM đã đưa ra một số kiến nghị cụ thể:

Thứ nhất, Việt Nam cần cân nhắc một cách tiếp cận mở hơn trong điều tiết ngành Ngân hàng, trong đó có tiếp cận mở đối với giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các NHTM.

Thứ hai, Việt Nam cần nghiên cứu chi tiết hơn về lợi ích tiềm năng của việc điều chỉnh tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các NHTM, gắn với các kịch bản điều chỉnh cụ thể.

Thứ ba, Việt Nam cần cân nhắc cập nhật chiến lược phát triển ngành Ngân hàng, trong đó có cân nhắc cập nhật quan điểm về mức độ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài.

Thứ tư, Việt Nam cần cân nhắc cải thiện khung pháp lý theo hướng hiện đại và mở, nhằm bảo đảm cạnh tranh bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng - tài chính.

Thứ năm, Việt Nam cần cân nhắc khả năng nâng giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại ngân hàng thương mại trong các đề xuất (nếu có) về phát triển trung tâm tài chính quốc tế, Fintech…

Ngô Hải