Những kiến nghị để hệ thống ngân hàng phát triển lành mạnh
Hoạt động ngân hàng - Ngày đăng : 09:11, 30/12/2021
Bổ sung vốn điều lệ cho Argibank là hết sức bức thiết
|
Trong năm 2021, Agribank đã thực hiện nghiêm túc phòng, chống dịch COVID-19, vừa tích cực, tiên phong triển khai nhiều chính sách, giải pháp hỗ trợ khách hàng và công tác an sinh, xã hội: chủ động cắt giảm chi phí hoạt động 10%, giảm lãi suất cho vay hỗ trợ khách hàng và giảm, miễn phí dịch vụ thanh toán với tổng mức giảm khoảng 6.500 tỷ đồng cùng với 500 tỷ đồng tài trợ cho công tác an sinh xã hội và phòng, chống COVID-19. Ngoài ra, với tinh thần chia sẻ trong khó khăn, người lao động của Agribank đã đồng thuận không nhận tiền hỗ trợ từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp góp phần dành nguồn lực cho công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19. Dự kiến đến ngày 31/12/2021, Agribank hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2021. Trong đó, tổng tài sản đạt 1.680 nghìn tỷ đồng, tăng 7,3%, huy động vốn đạt 1.563 nghìn tỷ đồng, tăng 7,5%; tín dụng đạt 1.316 nghìn tỷ đồng, tăng 8,5%.
Nhân dịp được phát biểu tại Hội nghị quan trọng này, Agribank kính đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN, Bộ, ngành xem xét một số vấn đề sau:
Thứ nhất, việc bổ sung vốn điều lệ cho Agribank là hết sức bức thiết để Agribank có thể duy trì được tăng trưởng tín dụng từ 8-10%/năm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhất là lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Hiện nay có ngân hàng TMCP quy mô tín dụng bằng 1/4 so với Agribank nhưng vốn điều lệ đã cao hơn Agribank. Vì vậy, kính đề nghị Chính phủ, Thủ tướng sớm xem xét việc để lại lợi nhuận năm 2021 tăng vốn cho Agribank, đồng thời dành Ngân sách Nhà nước để tăng vốn cho Agribank trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa sẽ tăng giá trị vốn Nhà nước khi cổ phần hóa.
Dự kiến đến ngày 31/12/2021, Agribank hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2021. Trong đó, tổng tài sản đạt 1.680 nghìn tỷ đồng, tăng 7,3%, huy động vốn đạt 1.563 nghìn tỷ đồng, tăng 7,5%; tín dụng đạt 1.316 nghìn tỷ đồng, tăng 8,5%.
Thứ hai, theo quy định tại Thông tư 22/2019/TT-NHNN, tỷ lệ LDR giảm từ 90% xuống còn 85% thì với quy mô huy động vốn của Agribank hiện nay, phải duy trì trên 230 nghìn tỷ đồng không được cho vay. Trong khi đó, do đặc thù nguồn vốn của Agribank chủ yếu là tiền gửi có kỳ hạn của dân cư huy động với lãi suất cao, chiếm 82% tổng nguồn vốn, đối tượng cho vay ưu tiên lãi suất trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn của Agribank lớn. Vì vậy, kính đề nghị NHNN xem xét nâng tỷ lệ này cho các NHTM lên 90% thì Agribank sẽ có thêm khoảng 80.000 tỷ đồng để cho vay và có điều kiện tiếp tục giảm lãi suất cho khách hàng cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Thứ ba, để Agribank tiếp tục được duy trì mô hình chi nhánh trực thuộc chi nhánh như hiện nay nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu tín dụng và tiện ích ngân hàng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn và yêu cầu chính trị của Đảng, Nhà nước, kính đề nghị NHNN nghiên cứu trình Chính phủ, Quốc hội luật hóa nội dung này vào Luật sửa đổi, bổ sung Luật doanh nghiệp hoặc quy định đặc thù cho ngân hàng thương mại như Agribank.
Thứ tư, đề nghị Chính phủ, Thủ tướng, NHNN xem xét cho phép cổ phần hóa 2 bước để đẩy nhanh lộ trình cổ phần hóa. Bước 1 là chuyển Agribank sang mô hình ngân hàng cổ phần với tỷ lệ nhỏ bán cho cán bộ, nhân viên Agribank và triển khai niêm yết trên thị trường chứng khoán. Bước 2, sau từ 2 - 3 năm sẽ lựa chọn cổ đông chiến lược nước ngoài sẽ có nhiều thời gian, cơ hội để lựa chọn cổ đông phù hợp và lợi ích của Nhà nước sẽ cao hơn. Nội dung cụ thể, Agribank xin phép sẽ báo cáo NHNN trong thời gian tới.
Thứ năm, trong thời gian tới với các giải pháp tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, một trong những biện pháp dự kiến Chính phủ sẽ áp dụng là qua hỗ trợ lãi suất tín dụng. Để khắc phục những bất cập như gói hỗ trợ lãi suất giai đoạn 2008 - 2009, kính đề nghị Thủ tướng, NHNN chỉ đạo rõ đối tượng, phạm vi hỗ trợ, tránh dàn trải và chỉ áp dụng cho những doanh nghiệp có dự án, phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có khả năng trả nợ ngân hàng, tránh áp lực tổ chức tín dụng buộc phải cho vay khi doanh nghiệp có nhu cầu vay.
Xây dựng hành lang pháp lý hoàn chỉnh để nắm bắt cơ hội từ chuyển đổi số ngành Ngân hàng
|
Nhận thức được tính tất yếu và cơ hội từ chuyển đổi số, các NHTM Việt Nam đã có những bước đi mạnh mẽ trong việc thực hiện chuyển đổi số, đặc biệt là tại một số các NHTM cổ phần với những kết quả rất khả quan.
Từ rất sớm, Vietcombank luôn xác định công nghệ và số hoá là những yếu tố then chốt, quyết định để duy trì năng lực cạnh tranh, đảm bảo vị thế dẫn đầu tại thị trường trong nước và chinh phục mục tiêu chiến lược trở thành 1 trong 100 ngân hàng lớn nhất trong khu vực châu Á, 1 trong 300 tập đoàn tài chính ngân hàng lớn nhất thế giới, được quản trị theo các thông lệ quốc tế tốt nhất.
Chuyển đổi số thành công là điều kiện quan trọng đảm bảo năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Để hỗ trợ cho việc đẩy mạnh chuyển đổi số của hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung, đặc biệt là của các NHTMNN, Vietcombank xin kiến nghị một số nội dung sau:
Chuyển đổi số gắn liền với việc đẩy mạnh đổi mới sáng tạo. Đi kèm với đổi mới sáng tạo luôn có những rủi ro nhất định. Chính vì vậy, chúng tôi rất vui mừng khi ngày 22/9/2021 Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. Chúng tôi đề nghị sớm thể chế hoá Kết luận số 14 bằng các qui định, chính sách để: Khuyến khích các DNNN trong đó có các NHTMNN đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D), chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo; Thực hiện cơ chế quản lý, đánh giá hiệu quả đầu tư tổng thể thay vì theo từng dự án cụ thể. Chấp nhận rủi ro ở mức độ cho phép để khuyến khích đầu tư vào công nghệ và đổi mới sáng tạo;
Vietcombank luôn xác định công nghệ và số hoá là những yếu tố then chốt, quyết định để duy trì năng lực cạnh tranh, đảm bảo vị thế dẫn đầu tại thị trường trong nước và chinh phục mục tiêu chiến lược trở thành 1 trong 100 ngân hàng lớn nhất trong khu vực châu Á, 1 trong 300 tập đoàn tài chính ngân hàng lớn nhất thế giới, được quản trị theo các thông lệ quốc tế tốt nhất.
Sớm thể chế hoá các chính sách để tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, khả năng cạnh tranh bình đẳng của các DNNN với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Trước mắt, cần rà soát sửa đổi Luật 69/2014/QH13, Nghị định số 10/2019/NĐ-CP theo hướng thống nhất quản lý theo mục tiêu, tăng giao quyền tự chủ trong kinh doanh, đặc biệt là trong cơ chế thu nhập, tiền lương, cơ chế đãi ngộ… cho DNNN nói chung và các NHTMNN nói riêng. Có như vậy mới thực sự khuyến khích thúc đẩy chuyển đổi số trong các DNNN, thu hút và giữ chân được nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho việc chuyển đổi số thành công.
Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025 định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ đã đặt ra yêu cầu ưu tiên chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị NHNN tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hành lang pháp lý để tạo điều kiện hơn nữa cho các hoạt động cho vay trực tuyến, cho vay qua các kênh số.
Đề nghị Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước xem xét cho phép gia hạn Thông tư 14
|
Kết thúc niên độ 2021, BIDV đã hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu kế hoạch, nhiệm vụ kinh doanh NHNN, Đại hội đồng cổ đông giao cả về quy mô, cơ cấu, chất lượng, hiệu quả và phát triển thể chế. Với quy mô tổng tài sản đạt 1.684.000 tỉ đồng, tăng 14%; dư nợ tín dụng và đầu tư đạt 1.582.600 tỉ, tăng 12%, vốn tín dụng tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên của nền kinh tế; chất lượng tín dụng được kiểm soát <1,5%; các chỉ số an toàn theo quy định; chỉ số xếp hạng tín nhiệm được nâng cao.
BIDV cũng quyết liệt triển khai chỉ đạo của Chính phủ, NHNN trong việc cơ cấu lại nợ, cho vay mới với lãi suất thấp, miễn giảm lãi, phí; cùng với việc tăng cường chuyển đối số, đẩy mạnh các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, cải cách thủ tục hành chính, phục vụ tốt các nhu cầu dịch vụ tài chính ngân hàng của nền kinh tế.
Để triển khai nhiệm vụ của ngành năm 2022, chúng tôi có một số kiến nghị, cụ thể:
Thứ nhất, tăng năng lực tài chính là điều kiện tiên quyết đối với các tổ chức tín dụng để đáp ứng được các chỉ số an toàn và phát triển tín dụng phục vụ đất nước. Áp lực tăng vốn khi tiếp tục thực hiện Basel 2 nâng cao, Basel 3 và đặc biệt trong giai đoạn tới 2022 - 2023, khi Chính phủ thực hiện chương trình phục hồi kinh tế, đòi hỏi duy trì mức tăng trưởng tín dụng cao. Vì vậy, đề nghị Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành có kế hoạch tạo điều kiện tăng vốn điều lệ cho các NHTM nhà nước, trước mắt, thông qua các hình thức phát hành cổ phiếu, tăng vốn Điều lệ từ cổ tức, từ lợi nhuận còn lại, cổ phiếu cho cán bộ nhân viên (ESOP)…
BIDV quyết liệt triển khai chỉ đạo của Chính phủ, NHNN trong việc cơ cấu lại nợ, cho vay mới với lãi suất thấp, miễn giảm lãi, phí; cùng với việc tăng cường chuyển đối số, đẩy mạnh các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, cải cách thủ tục hành chính, phục vụ tốt các nhu cầu dịch vụ tài chính ngân hàng của nền kinh tế.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế cho hoạt động Ngân hàng: Đề nghị Quốc hội, Chính phủ luật hóa hoặc cho kéo dài Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho các hoạt động Ngân hàng điện tử, cấp tín dụng trên kênh số; các quy định về bảo mật, về lưu trữ, khai thác dữ liệu khách hàng, ngân hàng…
Thứ tư, đề nghị Chính phủ tiếp tục chỉ đạo phát triển lành mạnh và vững chắc thị trường vốn, đảm bảo thực hiện tốt vai trò của thị trường vốn, thị trường chứng khoán là kênh dẫn vốn trung dài hạn chủ yếu cho nền kinh tế, giảm dần sự phụ thuộc và rủi ro cho hệ thống ngân hàng thương mại.
Thứ năm, đề nghị Chính phủ sớm ban hành chương trình phục hồi kinh tế; trong trường hợp dịch COVID-19 chưa được kiểm soát, đề nghị Chính phủ, NHNN xem xét cho phép gia hạn Thông tư 14, đồng thời có các biện pháp hỗ trợ các tổ chức tín dụng để các tổ chức tín dụng có điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp, người dân.
Basel 2, Basel 3 giúp hệ thống ngân hàng phát triển lành mạnh
|
Việc NHNN ban hành các tiêu chuẩn triển khai Basel 2 là một quyết định căn cơ, có các bước đi phù hợp với điều kiện của Việt nam. Hướng đi này kèm với tiến tới các tiêu chuẩn Basel 3 trong thời gian tới, sẽ giúp Hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển lành mạnh trong thời gian tới.
Năm 2020, MB đã hoàn thành sớm cả 3 trụ cột của Basel 2, tuân thủ theo Thông tư 41, Thông tư 13 của NHNN (có đánh giá độc lập của Công ty Kiểm toán Ernst & Young). MB chú trọng xây dựng được một hệ thống kiểm soát nội bộ khoa học, quản trị rủi ro thông minh gắn với “mô hình, công cụ, dữ liệu” giúp tăng trưởng nhanh và kiểm soát rủi ro.
Basel 2 đã giúp MB hoàn thành được các mục tiêu tăng trưởng tín dụng trên 20% trong những năm vừa qua, đảm bảo tỷ lệ nợ xấu < 1% (ở mức 0.7%), tỷ lệ bao phủ nợ xấu: 300%, tỷ lệ an toàn vốn khoảng 11% (so với quy định tối thiếu 8%).
Phương thức triển khai là: thống nhất; triệt để; toàn diện; chủ động nghiên cứu, vừa làm vừa thử nghiệm, ứng dụng và tinh chỉnh nhanh vào thực tiễn kinh doanh.
Basel 2 đã giúp MB hoàn thành được các mục tiêu tăng trưởng tín dụng trên 20% trong những năm vừa qua, đảm bảo tỷ lệ nợ xấu < 1% (ở mức 0.7%), tỷ lệ bao phủ nợ xấu: 300%, tỷ lệ an toàn vốn khoảng 11% (so với quy định tối thiếu 8%). Năm 2021, dự kiến hợp nhất tổng tài sản MB đạt 600.000 tỷ đồng; dư nợ cho vay 390.00 tỷ đồng; huy động vốn đạt 450.000 tỷ đồng; doanh thu tập đoàn MB đạt 45.000 tỷ đồng; nợ xấu dưới 1%...
Để tiếp tục phát huy tốt kết quả triển khai Basel 2 tại Việt nam, đóng góp vào đề án tái cơ cấu các tín dụng đã được thủ tướng chính phủ phê duyệt, thúc đẩy chuyển đổi số và tăng trưởng ổn định trong thời gian tới, tôi có có một số kiến nghị đề xuất như sau: Giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng ngay từ đầu năm để các TCTD chủ động triển khai kế hoạch kinh doanh, không ảnh hưởng đến Khách hàng và khả năng cung ứng tín dụng cho nền kinh tế; bổ sung cơ chế trích lập, sử dụng dự phòng cho các rủi ro gian lận, công nghệ, hoạt động; để thúc đẩy mạnh hơn, nhanh hơn quá trình chuyển đổi số của ngành ngân hàng; thông báo lộ trình và hướng dẫn các tổ chức tín dụng triển khai các chuẩn mực quản trị mới: Basel III, IFRS9...
5 yếu tố quan trọng giúp tái cơ cấu ngân hàng thành công
|
Từ thực tiễn quá trình tái cơ cấu sau khi sáp nhập với Ngân hàng Phương Nam cũng như tham gia hỗ trợ xử lý Quỹ tín dụng nhân dân Ngũ Thái, Sacombank cũng đã đúc rút một số bài học kinh nghiệm để tái cơ cấu thành công như sau:
Thứ nhất, phải xác định đúng thực trạng đối với các ngân hàng yếu kém (tài chính, nợ xấu và tài sản tồn đọng, cơ cấu quản trị điều hành, cơ cấu sở hữu…) dưới sự tư vấn, đánh giá của công ty độc lập và có sự kiểm soát của cơ quan quản lý có thẩm quyền. Từ đó, làm cơ sở để xây dựng các mục tiêu, giải pháp và lộ trình thực hiện phù hợp với thực tế, tuân thủ quy định của pháp luật và có tính khả thi cao. Trong quá trình triển khai thực hiện tái cơ cấu cần hỗ trợ cho ngân hàng tiếp cận mô hình ngân hàng tốt, ngân hàng xấu, giúp ngân hàng tái cơ cấu vừa xử lý tồn đọng, vừa tăng trưởng kinh doanh để tăng năng lực tài chính.
Thứ hai, việc xử lý ngân hàng yếu kém cần khẩn trương kịp thời và đúng thời điểm, tránh để tình trạng ngày càng chuyển biến xấu hơn mới xử lý sẽ dẫn đến công tác khắc phục gặp nhiều khó khăn và gây ảnh hưởng dây chuyền đến hệ thống.
Trong quá trình triển khai thực hiện tái cơ cấu cần hỗ trợ cho ngân hàng tiếp cận mô hình ngân hàng tốt, ngân hàng xấu, giúp ngân hàng tái cơ cấu vừa xử lý tồn đọng, vừa tăng trưởng kinh doanh để tăng năng lực tài chính.
Thứ ba, hỗ trợ và tạo điều kiện cho các ngân hàng yếu kém sáp nhập vào các ngân hàng có nội lực và nền tảng tài chính tốt, khuyến khích các ngân hàng tự tái cơ cấu bằng nguồn lực kinh tế tư nhân để hạn chế sử dụng ngân sách nhà nước. Chính phủ và NHNN có cơ chế hỗ trợ: khoanh nợ và lãi, hoãn/giãn việc trích lập dự phòng và phân bổ các tồn đọng theo năng lực tài chính; Tạo điều kiện về tăng trưởng tín dụng, phát triển mạng lưới phù hợp... Ngoài ra, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan ban ngành để rút ngắn quá trình xử lý nợ xấu và tài sản tồn đọng.
Thứ tư, tổ chức, cá nhân tham gia tái cơ cấu ngân hàng yếu kém phải có nguồn lực tài chính vững mạnh và hợp pháp; Hội đồng quản trị và Ban điều hành phải có tính chuyên nghiệp, năng lực nghề nghiệp, phải có tâm và có tầm.
Thứ năm, bộ máy hoạt động, quản trị điều hành cần phải được tái cấu trúc theo hướng công khai, minh bạch và tuân thủ pháp luật trong mọi hoạt động. Đồng thời, xây dựng được đội ngũ nhân sự, bộ máy tổ chức có năng lực, bản lĩnh và trách nhiệm, kiên định với mục tiêu chiến lược đã đề ra.