Chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá của Việt Nam trước tác động của dịch COVID-19
Nghiên cứu - Trao đổi - Ngày đăng : 09:30, 03/01/2022
Tóm tắt: Bài viết tổng hợp những hậu quả mà đại dịch COVID-19 mang lại và những gói hỗ trợ kinh tế kịp thời của Chính phủ đã, đang triển khai, từ đó bình luận về sự vận hành, phối hợp của chính sách tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ (CSTT) để ứng cứu cho người dân, các doanh nghiệp trong thời gian đại dịch. Trên cơ sở đó, gợi ý một số vấn đề cần được quan tâm hơn khi phối hợp CSTK và CSTT để nâng cao hiệu lực truyền dẫn của các chính sách đến nền kinh tế trong thời gian tới.
Monetary policy and fiscal policy of Vietnam in the impact of the COVID-19 pandemic
Abstract: The article summarizes the consequences brought by the COVID-19 pandemic and the timely economic supporting packages implemented by the Government, then comments on the operation and coordination of fiscal policy and monetary policy to rescue people and businesses during the pandemic. On that basis, a number of issues are suggested in regard to the close coordination of fiscal policy and monetary policy with the aim to improve the transmission effectiveness of policies to the economy in the coming time.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm 2020 trôi qua với hầu hết sự kiện kinh tế, xã hội đều gắn với đại dịch COVID-19. Dịch COVID-19 là mối nguy hiểm không chỉ với sự an toàn sức khoẻ của con người mà còn là một cú sốc đối với nền kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Mặc dù vậy, kết thúc năm 2020, trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn còn bị suy thoái sâu do tác động nặng nề của dịch COVID-19 thì Việt Nam lại trở thành điểm sáng của thế giới - thực hiện có hiệu quả mục tiêu “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế - xã hội”. Theo số liệu thống kê kinh tế – xã hội quý IV và năm 2020 của Tổng cục Thống kê thì tính chung năm 2020, GDP của Việt Nam tăng 2,91% [1]- tuy là mức thấp nhất trong vòng 10 năm qua, nhưng là mức tăng trưởng dương và thuộc nhóm cao nhất thế giới. Có thể nói, đây là thành công lớn của Việt Nam. Các gói hỗ trợ kinh tế từ Chính phủ, thông qua đó CSTK và CSTT được vận hành đồng thời đã hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong đại dịch, giúp nền kinh tế từng bước hồi phục. Tuy vậy, đứng ở góc độ điều hành chính sách thì đây thực sự cũng là mối lo ngại vì về lâu dài, nếu thực thi chính sách hỗ trợ kém hiệu quả, nguồn tiền không đổ vào những lĩnh vực sản xuất tạo giá trị bền vững cho tăng trưởng kinh tế thì lạm phát có thể là nguy cơ tiềm ẩn cho giai đoạn sau. Bài viết nghiên cứu, thảo luận về CSTK và CSTT của Việt Nam trước tác động của dịch COVID-19.
HẬU QUẢ CỦA DỊCH COVID-19 VÀ CÁC GÓI HỖ TRỢ TỪ CHÍNH PHỦ
Tính đến ngày 31/12/2020, thế giới có hơn 83.790.000 ca nhiễm với hơn 59.300.000 người khỏi bệnh và hơn 1.820.000 trường hợp tử vong ở hơn 220 quốc gia và vùng lãnh thổ. Mỹ là quốc gia có số người nhiễm cao nhất thế giới với hơn 20.445.000 người nhiễm và cũng là quốc gia có số người tử vong cao nhất với hơn 354.200 người chết. Đứng thứ 2 là Ấn Độ với hơn 10.286.000 người nhiễm và hơn 149.000 người tử vong. Đứng thứ 3 là Brazil với hơn 7.670.000 người nhiễm và gần 195.000 người tử vong. Tính đến hết năm 2020, các nước xếp ở vị trí 4 đến 10 về số ca nhiễm là: Nga, Pháp, Anh, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý, Tây Ban Nha, Đức, các nước xếp ở vị trí 4 đến 10 về số tử vong là Mexico, Ý, Anh, Pháp, Nga, Iran, Tây Ban Nha. Có 18 nước trên 1 triệu ca/nước, và 18 nước trên 20.000 ca tử vong/nước.[2]
Diễn biến nhanh, phức tạp và khó lường của đại dịch COVID-19 đã đẩy nhiều nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kép cả về y tế và kinh tế. Theo các tổ chức quốc tế, kinh tế thế giới năm 2020 suy giảm 4-4,5%, trong đó thương mại toàn cầu dự báo suy giảm khoảng 9,2-10% và đầu tư giảm khoảng 10-15%, dòng vốn FDI giảm khoảng 25-30%, chủ yếu do dịch COVID-19 [3]. Đại dịch COVID-19 đã gây làn sóng phá sản lan rộng. Trung bình cứ 3 doanh nghiệp (DN) trên thế giới thì có 1 DN nguy cơ mất khả năng thanh toán. Theo tính toán của Tổ chức Lao động quốc tế đến tháng 9/2020, tỷ lệ mất việc làm lên tới 12,1%, tương đương 345 triệu việc làm và xu hướng tiếp tục diễn biến xấu khi dịch COVID-19 vẫn phức tạp. Việt Nam cũng trong tình trạng tương tự, Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc cho biết, dịch COVID-19 gây tác động nặng nề lên DN Việt Nam, đến tháng 11/2020, số DN phải tạm dừng hoạt động và rời khỏi thị trường lên tới 44.000 DN, tăng 60% so với cùng kỳ năm 2019. Trung bình mỗi tháng, Việt Nam có trên 5.000 DN phải rời khỏi thị trường. Đây là con số lớn nhất từ trước tới nay và kéo theo nhiều hệ luỵ [4]
Ứng phó với dịch COVID-19, các quốc gia đều thực hiện đồng thời nhiều chính sách khác nhau, liên tiếp tung ra các gói kích cầu và đồng loạt triển khai các biện pháp để nhằm hạn chế cao nhất tác động tiêu cực của dịch bệnh đến nền kinh tế, hỗ trợ nền kinh tế vượt qua cuộc khủng hoảng này. Ở Việt Nam, Chính phủ đã nhanh chóng thực hiện các giải pháp mạnh, trước hết là để hạn chế sự lây lan của dịch bệnh, sau đó là để phát triển kinh tế thông qua các gói hỗ trợ kinh tế. Các giải pháp chứng tỏ thành công bước đầu khi khống chế được dịch bệnh, không để lây lan trong cộng đồng và các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội bắt đầu trên con đường khởi sắc trở lại.
Gói hỗ trợ tài khoá 180.000 tỷ đồng
Ngày 8/4/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 41/2020NĐ-CP quy định việc gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất đối với 5 nhóm đối tượng. Theo tính toán của Bộ Tài chính, số doanh nghiệp được gia hạn tiền thuế GTGT, thuế TNDN, tiền thuê đất lần này lên tới 98% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất, kinh doanh trong cả nước với số tiền khoảng 180 nghìn tỷ đồng [5]. Đây là con số lớn, có thể giúp người được gia hạn nộp thuế có vốn duy trì việc sản xuất, kinh doanh.
Gói hỗ trợ 62.000 tỷ đồng cho an sinh xã hội
Ngày 24/4/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg quy định về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19. Đây được gọi là gói “tiền tươi” đầu tiên từ ngân sách nhà nước được dùng để hỗ trợ người dân trong đại dịch với phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Gói này có hai cấu phần, phần 36.000 tỷ đồng hỗ trợ trực tiếp cho người dân gặp thiệt hại do dịch COVID-19, phần còn lại là hỗ trợ gián tiếp thông qua việc cho phép doanh nghiệp tạm ngừng đóng quỹ hưu trí đối với lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Gói hỗ trợ tín dụng 300.000 tỷ đồng
Đây là gói hỗ trợ thực hiện thông qua việc gia hạn nợ, giảm lãi suất khi vay vốn ngân hàng. Đối tượng được vay là các lĩnh vực ít bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh và cần vốn để tăng trưởng mạnh sau khi dịch kết thúc như sản xuất và nông nghiệp, thuỷ sản, các dịch vụ y tế, lĩnh vực điện... Các DN bị ảnh hưởng nặng bởi COVID-19 được giải ngân nếu đảm bảo khả năng trả được nợ. Gói hỗ trợ tín dụng trị giá 300.000 tỷ đồng được giao cho các ngân hàng thương mại (NHTM) triển khai.
Tổng giá trị của 3 gói cứu trợ tương đương khoảng 8% GDP của Việt Nam (542.000 tỷ đồng), nếu đem so với gói cứu trợ của Mỹ - khoảng 10% GDP của Mỹ (2.200 tỷ USD) thì đây được xem là mức hỗ trợ vừa phải đối với nền kinh tế Việt Nam.
Ngoài các gói hỗ trợ trên, Chính phủ còn yêu cầu giải ngân 30 tỷ USD vốn đầu tư công. Cụ thể là các ngành phải giải ngân hết vốn còn lại của năm 2019 và vốn kế hoạch năm 2020 với tổng số vốn gần 700 nghìn tỷ đồng, tương đương gần 30 tỷ USD. Đặc biệt, Chính phủ có chủ trương giải ngân các dự án trọng điểm, cấp bách đối với một số dự án giao thông như cao tốc Bắc - Nam phía Đông, cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ, sân bay quốc tế Long Thành...
Như vậy, ngoài các gói hỗ trợ như gói hỗ trợ về tài khóa (180.000 tỷ đồng); gói hỗ trợ an sinh xã hội (khoảng 62.000 tỷ đồng) và gói hỗ trợ về tín dụng (300.000 tỷ đồng) còn có gói gần 700.000 tỷ đồng, tương đương 30 tỷ USD - số vốn đầu tư công, cần giải ngân hết trong năm.
Mặc dù trên thực tế còn khá nhiều vấn đề nan giải trong việc tiếp cận với các gói hỗ trợ kinh tế từ Chính phủ của cả DN và người dân thì nhìn chung cộng đồng đều đánh giá cao sự nhạy bén, quyết liệt trong phòng, chống dịch của Chính phủ thời gian qua, với việc ban hành các giải pháp hỗ trợ, đặc biệt là Chỉ thị 11 của Chính phủ.
VAI TRÒ CỦA CSTK VÀ CSTT TRƯỚC TÁC ĐỘNG CỦA DỊCH COVID-19
Trên thực tế, khi có những diễn biến bất thường xảy ra và gây ảnh hưởng nặng nề đến kinh tế thì CSTK và CSTT là những công cụ chính thường được các quốc gia sử dụng để ứng phó.
Nhìn lại quá khứ, khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2007 - 2008 (GFC) là cuộc khủng hoảng “đắt đỏ” nhất với cái giá phải trả là 10.000 tỷ USD bị cuốn trôi, 30 triệu người mất việc, 50 triệu người quay lại chuẩn dưới nghèo [6]. Khi đó, để cứu nền kinh tế, ngoài việc cắt giảm lãi suất, nhiều quốc gia đã sử dụng CSTT bất thường - tăng lượng cung tiền vào nền kinh tế [7]. Như ở Mỹ, đã tung ra 3 gói QE (Quantitative Easing - Nới lỏng định lượng) là QE 1 năm 2008; QE 2 năm 2010 và QE 3 năm 2012. Còn tại Anh, các chương trình hỗ trợ cho vay của Bank of England cũng đã được thiết kế để giúp tăng trưởng kinh tế. Trong đó, việc mua lại trái phiếu Chính phủ cũng được sử dụng rộng rãi. Mỹ đã áp dụng các gói QE cho đến năm 2014. Các gói QE ở Mỹ với quy mô tổng cộng 3,5 ngàn tỷ USD và ở Anh là 569 tỷ USD được áp dụng trong giai đoạn 2008 – 2014 [8]. Ở Việt Nam, mặc dù gần như miễn nhiễm với GFC, song GFC vẫn để lại những dấu ấn nhất định trong điều hành CSTT. Để đạt mục tiêu tăng trưởng - mục tiêu được xếp hàng đầu trong nhiều năm liền, CSTT đã được nới lỏng liên tục và đặc biệt tăng vào năm 2007. Tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân hàng năm khoảng 25% (giai đoạn 1998- 2007), riêng năm 2007, con số này đạt kỷ lục (cao nhất trong 10 năm) là 37,8%, đẩy tổng phương tiện thanh toán năm 2007 tăng thêm 37% [9]. Bên cạnh CSTT, CSTK cũng vào cuộc. Đầu năm 2009, Thủ tướng Chính phủ công bố Quyết định số 16 và Quyết định số 58 ban hành một số giải pháp về thuế nhằm thực hiện chủ trương kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Tổng trị giá gói kích thích kinh tế của Chính phủ từ những thay đổi trong chính sách thuế lên đến gần 27.000 tỷ đồng [10]. Vì vậy, trung bình trong giai đoạn 2007–2012, tỷ lệ M2/GDP đã lên tới 113%, cao gấp khoảng 2,3 lần con số tương ứng của giai đoạn 1996–2006; còn tỷ lệ chi ngân sách nhà nước/GDP vào khoảng 32%, cao xấp xỉ gấp 1,3 lần của giai đoạn 1996–2006 [11].
Đại dịch COVID-19 cũng là tình trạng bất thường, tác động mạnh và để lại những hậu quả nặng nề, gây tổn hại đến nền kinh tế thế giới. Vấn nạn kinh tế từ đại dịch COVID-19 là tình trạng chuỗi cung ứng toàn cầu gián đoạn, lần đầu tiên kinh tế thế giới cùng một lúc phải chịu đựng cả cú sốc cung lẫn cú sốc cầu từ qui mô toàn cầu, đến từng quốc gia. Hàng loạt quyết định phong tỏa và cách ly từng khu vực, từng thành phố thậm chí từng quốc gia làm thay đổi thói quen chi tiêu, đi lại của người tiêu dùng dẫn đến sản xuất đình trệ, thất nghiệp gia tăng, kéo theo nguy cơ vỡ nợ, phá sản của doanh nghiệp… Những biến động này đã ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng chung cũng như đẩy kinh tế toàn cầu tới bờ suy thoái. Phải nhanh chóng khắc phục tình trạng đó và mở rộng CSTK, nới lỏng CSTT lại một lần nữa được các quốc gia sử dụng một cách linh hoạt thông qua việc liên tục cắt giảm lãi suất cũng như tung ra những gói hỗ trợ khổng lồ.
Ở Việt Nam, ngay từ đầu tháng 3/2020, khi dịch bệnh mới bùng phát, Chỉ thị 11/CT-TTg được ban hành nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch COVID-19. Cũng như các quốc gia khác, các chính sách hỗ trợ kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ này hướng đến duy trì năng lực cho nền kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế không bị kiệt quệ, nâng cao khả năng phục hồi khi dịch bệnh thuyên giảm. Các biện pháp hỗ trợ được thực thi thông qua CSTK và CSTT.
Các biện pháp được thực thi bởi CSTK: Thực hiện chủ trương của Chính phủ, Bộ Tài chính đã triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ như: gia hạn thuế, miễn giảm nhiều khoản phí, lệ phí, cũng như nhiều giải pháp để cân đối ngân sách Nhà nước. Cụ thể như: (i) Đầu tư nghiên cứu, sản xuất vaccine và thiết bị y tế (tương tự như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Ấn Độ, Philippines…); (ii) Trợ cấp người lao động tự do, mất việc chưa được nhận trợ cấp thất nghiệp, lao động mất việc từ 14 ngày trở lên, hộ kinh doanh cá thể có thu nhập dưới 100 triệu đồng/năm, hộ kinh doanh ngừng kinh doanh từ ngày 1/4/2020 (tương tự như Anh, Hàn Quốc,…); (iii) Trợ cấp bằng tiền mặt cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, người có công với cách mạng (tương tự như Úc, Mỹ, Đức…); (vi) Gia hạn nộp thuế: Cho phép giãn, hoãn nộp thuế thu nhập DN, thuế thu nhập cá nhân, tiền thuê đất (tương tự như Mỹ, EU, Pháp, Trung Quốc, …); (v) Giảm thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập DN, thuế thu nhập cá nhân (tương tự như Trung Quốc, Singapore,…); (vi) Giảm 10% giá bán lẻ điện cho các ngành sản xuất và kinh doanh; (vii) Tạm dừng đóng BHXH vào quỹ hưu trí và tử tuất; (viii) Lùi thời điểm đóng kinh phí công đoàn và (ix) Giảm, miễn nhiều loại phí, lệ phí như: Miễn lệ phí môn bài đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; giảm mức thu lệ phí đăng ký doanh nghiệp; giảm mức phí công bố thông tin doanh nghiệp; Giảm phí trước bạ xe ôtô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước, giảm giá và miễn hoàn toàn không thu đối với 15 loại dịch vụ chứng khoán…
Với CSTT: Chính phủ giao cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) cân đối, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xét duyệt hồ sơ vay vốn, nâng cao khả năng tiếp cận vốn vay của khách hàng; kịp thời áp dụng các biện pháp hỗ trợ đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Các giải pháp NHNN đã triển khai có thể được cụ thể hoá như sau: (i) Hạ lãi suất điều hành tạo định hướng lãi suất và giảm lãi suất cho các TCTD (qua kênh cho vay tái cấp vốn, tái chiết khấu) để các TCTD có thể hạ lãi suất cho vay; (ii) Hạ lãi suất vay vốn cho khách hàng với mức giảm phổ biến từ 0,5-2%, thậm chí từ 2,5 - 4%/năm ở một số ngân hàng lớn (VietinBank, Vietcombank, Techcombank…); (iii) Cơ cấu lại thời hạn trả nợ; (iv) Miễn giảm các khoản lãi vay; (v) Giữ nguyên nhóm nợ; (vi) Giảm chi phí thanh toán; và (vii) Cho vay tiền để trả lương ngừng việc cho người lao động từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH).
Nhìn chung, các giải pháp được triển khai từ CSTK và CSTT đều thiết thực vì hướng đến mục tiêu gia tăng sức chịu đựng của nền kinh tế trong bối cảnh đại dịch, như tăng chi ngân sách cho việc ngăn chặn và kiểm soát dịch bệnh, tăng cường đầu tư nghiên cứu, sản xuất vaccine và thiết bị y tế; đảm bảo an sinh xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi trợ cấp cho người lao động, các đối tượng dễ bị tổn thương; giảm thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; khuyến khích sản xuất, nhằm vực lại niềm tin tiêu dùng, vực lại niềm tin kinh doanh, tạo việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Tuy nhiên, hiệu quả của các giải pháp được triển khai trên cơ sở các gói hỗ trợ còn khá nhiều vấn đề cần bàn. Theo kết quả khảo sát được đưa ra trong Báo cáo “Đánh giá các chính sách ứng phó với COVID-19 và các khuyến nghị”, do Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (ĐHKTQD) phối hợp với Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản tại Việt Nam (JICA) thực hiện (công bố ngày 15/1/2021) thì trong số 380 doanh nghiệp tại 3 tỉnh/thành phố: Hà Nội, TP. HCM và Thanh Hóa chỉ có 22,25% doanh nghiệp nhận được hỗ trợ và “hiệu quả của các chính sách hỗ trợ là khác nhau, theo đó có một số chính sách đã phát huy tác dụng tốt, trong khi nhiều chính sách hiệu quả còn rất hạn chế”.
Trước việc lựa chọn chính sách để ứng phó với đại dịch, không ít ý kiến cho rằng nên tập trung vào CSTK. Theo TS. Trần Hùng Sơn: “Nhiều nhà kinh tế cho rằng để giải quyết cuộc khủng hoảng do đại dịch COVID-19 gây ra, cần sử dụng công cụ chính là CSTK, còn CSTT sẽ đóng vai trò hỗ trợ” [12]. Hay nhóm chuyên gia Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV cũng cho rằng “dư địa của CSTT dần bị thu hẹp vì lãi suất đã ở mức rất thấp và thường chỉ mang tính thời điểm, khẩn cấp; do đó, các nước tập trung nhiều hơn vào CSTK. [13]
MỐI QUAN HỆ GIỮA CSTK VÀ CSTT
Thực tế đã chứng minh, để ứng phó với đại dịch thì cần phải có sự phối hợp giữa CSTK và CSTT
Trong đại dịch, khi nền kinh tế bị đóng cửa, nhiều DN phải ngừng hoạt động nhưng phần lớn DN và người tiêu dùng có các khoản vay thì vẫn phải trả nợ, doanh nghiệp vẫn phải trả lương cho người lao động, người dân vẫn phải trả hóa đơn tiền nhà, tiền điện và các sản phẩm dịch vụ thiết yếu khác. Khi tình trạng đóng cửa nền kinh tế kéo dài, nếu không có sự trợ giúp từ phía chính phủ thì có thể dẫn đến một làn sóng vỡ nợ, phá sản và thị trường tài chính tiền tệ khó có thể tránh được những thảm họa nặng nề. Trong tình trạng đó, cả CSTK và CSTT đều phải gánh vác trách nhiệm cứu nguy cho nền kinh tế. Mỗi chính sách đều có những mặt tích cực của nó, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế đang phải hứng chịu những hậu quả nặng nề thì rất khó có thể từ chối hay lựa chọn chính sách nào giữa CSTK và CSTT.
Cũng như hầu hết các quốc gia, đối với CSTK, Việt Nam cũng đã dành lượng ngân sách đáng kể hỗ trợ tiền trực tiếp cho người lao động, hộ gia đình; đối với doanh nghiệp, thực hiện miễn, giảm thuế, giảm phí… Trên thực tế, CSTK đã đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc chiến chống lại tác động của dịch COVID-19. Không chỉ nhắm đến việc phục hồi nền kinh tế, CSTK còn hướng đến mục tiêu giảm bớt bất bình đẳng, vực dậy niềm tin của doanh nghiệp, của người dân vốn đã suy yếu trong đại dịch. Bên cạnh đó, khác với CSTT, CSTK có thể bơm tiền trực tiếp cho người dân và doanh nghiệp, đồng thời CSTK cũng phù hợp hơn trong việc cứu trợ cho những ai cần kíp nhất trong cuộc khủng hoảng - kịp thời điều chỉnh thanh khoản, trực tiếp giảm áp lực chi phí cho các doanh nghiệp và người lao động trong thời kỳ khó khăn, hạn chế tốc độ sụt giảm nhu cầu tiêu dùng của cả cá nhân và doanh nghiệp, bằng cách đó cho phép các chủ thể này tồn tại qua giai đoạn khó khăn và gia tăng khả năng khôi phục khi nền kinh tế qua khỏi giai đoạn suy giảm.
Trên thực tế, việc bơm tiền thông qua CSTK không thể kham hết mọi vấn đề của các doanh nghiệp không thể thay doanh nghiệp trả hết nợ vay đến hạn, không thể trợ cấp mọi nhu cầu để doanh nghiệp có thể duy trì hoạt động. CSTK cũng có những giới hạn nhất định, nếu tình trạng gánh nặng từ CSTK quá lớn, các biện pháp can thiệp mạnh mẽ của chính phủ có thể kéo theo tình trạng gia tăng đáng kể của nợ công và có thể sẽ gây nên những bất ổn vĩ mô về lâu dài. Và vì thế, bên cạnh CSTK, CSTT vẫn phát huy vai trò của nó - nhiều giải pháp về tín dụng nhằm hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay vốn bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 được triển khai. Ngay sau khi có chủ trương của Chính phủ, Thông tư 01/2020/TT-NHNN lập tức được ban hành, có hiệu lực từ ngày 13/3/2020, tạo cơ sở pháp lý để các TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ, giúp người dân và doanh nghiệp giảm áp lực trả nợ để tập trung vốn cho sản xuất kinh doanh. Các giải pháp được thực hiện bằng chính nguồn lực của các TCTD từ việc tiết kiệm triệt để chi phí hoạt động, giảm lợi nhuận kinh doanh, đã phát huy tác dụng giúp giảm áp lực cho doanh nghiệp trong trả nợ vay ngân hàng và tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp tục vay mới khôi phục và ổn định sản xuất, kinh doanh.
Như vậy, cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam cũng triển khai đồng thời cả CSTK và CSTT để ứng phó với đại dịch. Tài liệu của IMF về tình hình phối hợp CSTK và CSTT của 185 nước thành viên IMF cho thấy, để ứng phó với đại dịch COVID-19 có tới 146 quốc gia (chiếm 79%) thực hiện sự phối hợp CSTK và CSTT; số các quốc gia chỉ sử dụng một chính sách, hoặc CSTK, hoặc CSTT chỉ chiếm 12% [14]. Đây cũng là một minh chứng cho thấy sự hữu ích của việc phối kết hợp CSTK và CSTT để hạn chế những tác hại của dịch COVID-19.
Sự phối hợp CSTK và CSTT của các quốc gia thành viên IMF
|
Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong bối cảnh dịch bệnh, chính sách hiệu quả nhất để thực hiện các hoạt động hỗ trợ này là giảm thuế, hỗ trợ trả lương cho doanh nghiệp, hỗ trợ đóng các phí bảo hiểm, các chi phí điện nước… sẽ có tác động trực tiếp giảm áp lực chi phí cho các doanh nghiệp và người lao động. Với các biện pháp cách ly nghiêm ngặt, chuỗi cung ứng gián đoạn, nhu cầu hàng hóa trong nước và quốc tế giảm, xuất khẩu và tiêu thụ nhiều mặt hàng gặp khó khăn - trong hoàn cảnh đó, doanh nghiệp không có doanh thu, không có khả năng trả nợ, đồng nghĩa với không đủ điều kiện vay vốn, do vậy việc vay vốn để tiếp tục hoạt động kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn. Mặt khác, doanh nghiệp sản xuất cầm chừng chưa hẳn vì thiếu vốn mà vì cầu giảm sút nghiêm trọng, khả năng hấp thụ dòng tín dụng mới rất hạn chế - hiệu quả của việc mở rộng CSTT sẽ rất thấp. Như vậy, trong bối cảnh dịch bệnh thì CSTK thực sự đóng vai trò quyết định, mặc dù vậy song cũng không thể không thừa nhận tầm quan trọng của việc phối kết hợp giữa CSTK và CSTT trong ứng phó với đại dịch. Các giải pháp điều hành CSTT, CSTK thời gian qua là đúng hướng, có hiệu quả, có tác dụng thiết thực hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện mục tiêu vừa chống dịch, vừa đảm bảo phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa CSTK và CSTT không đơn thuần chỉ là sự hỗ trợ tích cực, để có được sự phối hợp giữa CSTK và CSTT có hiệu quả hơn thì cũng cần phải thấu hiểu về mối quan hệ căng thẳng thường có giữa CSTK và CSTT.
Mối quan hệ căng thẳng thường có giữa CSTK và CSTT
Chức năng chính của NHTW trong nền kinh tế là bảo đảm sự ổn định của tiền tệ, được coi là tiền đề chủ yếu cho mọi hoạt động trong toàn hệ thống. Để CSTT có thể thành công thì điều cần thiết là phải đảm bảo chắc chắn việc NHTW không phải tài trợ cho những khoản thâm hụt của ngân sách nhà nước (NSNN) dưới bất cứ hình thức nào. Nếu lạm dụng vấn đề này sẽ gây nên lạm phát do tăng cầu vì thu nhập vượt quá mức sản xuất, tức là các khoản chi của nhà nước đều trở thành thu nhập của dân mà không có sản xuất đối ứng. Điều đó cũng có thể làm tăng nhu cầu nhập khẩu và đồng thời tạo sức ép giảm giá tương ứng lên đồng nội tệ. Kết quả của cách làm này đi ngược lại chính sách của NHTW là muốn giữ đồng tiền khan hiếm. Nếu cứ vi phạm mối quan hệ nền tảng này thì mọi cố gắng phục hồi sự phát triển kinh tế sẽ không thành công.
Tuy vậy, liệu CSTT có thực hiện được nhiệm vụ bảo đảm sự ổn định của tiền tệ hay không, không phải là không phụ thuộc vào CSTK. Khái niệm CSTK bao gồm tất cả những biện pháp dẫn đến việc thu/ chi của nhà nước. Vì lợi ích thiết lập một đồng tiền có hiệu lực, CSTK cần phải đảm bảo cân bằng được ngân sách. Tuy nhiên, thực tế thì không phải lúc nào CSTK cũng làm được việc đó, ví dụ như trong tình trạng bất khả kháng - như đại dịch COVID-19 xảy ra thì cân bằng ngân sách là công việc không đơn giản. Vì tình trạng này đã tạo ra lỗ hổng tài chính cho NSNN - thâm hụt gần như là đương nhiên. Việc giải quyết vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi cố gắng ổn định của hệ thống tiền tệ. Ngoài những biện pháp trong phạm vi quản, kiểm của CSTK như tăng thu, tiết kiệm chi… thì CSTT là biện pháp mà hầu hết các quốc gia đều phải sử dụng khi có sự thâm hụt ngân sách. Bởi vì, dù bằng con đường nào, nếu thực lực của nền kinh tế chỉ có giới hạn thì con đường đó dù có ngoằn nghèo đến thế nào cuối cùng cũng đến với CSTT, cũng làm suy yếu vai trò của CSTT.
Con đường đó có thể là: (1) Bù đắp thâm hụt ngân sách bằng cách vay nợ nước ngoài. Bằng cách này cũng không thể đảm bảo sự ổn định của tiền tệ vì hoặc nhà nước vẫn phải trả những khoản chi ngân sách cho người trong nước bằng nội tệ, hoặc phải gia tăng nhu cầu ngoại tệ của tư nhân. Ngoài ra, điều đó còn gây thêm gánh nặng cho tích luỹ của bản thân nền kinh tế do phải trả những khoản nợ nước ngoài mới phát sinh. Thảm hoạ khủng hoảng nợ của các nước châu Mỹ La tinh, châu Phi vào thập niên 1980 là một minh chứng lịch sử.
(2) Bù đắp thâm hụt ngân sách bằng việc tài trợ của NHTW. Việc tài trợ của NHTW cho thâm hụt ngân sách, dù bằng bất cứ hình thức nào cũng đều đi ngược lại nhiệm vụ chính của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế. Đó là: (i) Tiền tệ hoá các khoản nợ nhà nước, tức là in tiền để bù đắp thâm hụt tài chính của các cơ quan nhà nước- điều này có nghĩa là tài trợ trực tiếp cho thâm hụt của ngân sách trong đó kể cả việc bù lỗ cho các NHTM - ảnh hưởng tiêu cực tới sự ổn định giá cả thị trường; (ii) Phát hành trái phiếu nhà nước và yêu cầu NHTW phải nhận. Trường hợp này tiền mới cũng xuất hiện vì khả năng thu hồi của NHTW cũng khó có sự đảm bảo; (iii) Cấp tín dụng cho chính phủ - NHTW hầu như rất khó có thể cưỡng chế việc trả nợ, thậm chí cũng rất khó có thể từ chối việc cấp tín dụng mới để hoàn trả nợ cũ. Nếu tín dụng cấp cho nhà nước không được hoàn trả hoặc được hoàn trả trong thời gian dài thì sẽ không có việc huỷ tiền (NHTW thu hồi tiền về) hoặc nếu có thì phải trong thời gian dài. Hậu quả là NHTW bị mất đi khả năng tác động vào sự tăng lên của khối lượng tiền tệ bằng việc thay đổi các điều kiện tái cấp vốn. Đó chính là lý do tại sao ở Cộng hoà liên bang Đức lại có luật cấm NHTW tức Ngân hàng liên bang Đức cấp tín dụng cho nhà nước, cũng cấm nhà nước bắt NHTW phải nhận trái phiếu của mình.
Như vậy trong những tình huống khẩn cấp, CSTK được sử dụng để bù đắp những lỗ hổng khẩn cấp và người ta dễ dàng nhận thấy các biện pháp được thực thi từ CSTK có hiệu quả hơn. Nếu việc tài trợ được thực hiện trong điều kiện một CSTK tích cực thì sẽ đem lại những tác động tích cực cho việc thực thi CSTT và ngược lại- CSTK cũng thường được xem là nguyên nhân gây lạm phát và làm giảm tăng trưởng khi CSTK mở rộng quá mức dẫn đến Chính phủ phải tăng cường vay nợ trong và ngoài nước, làm suy giảm vai trò của CSTT.
Rõ ràng, tuy có nhiều tình huống tạo sự căng thẳng giữa CSTK và CSTT song vẫn phải thừa nhận rằng trong ứng phó với đại dịch, mối quan hệ chặt chẽ giữa CSTK và CSTT là không thể phủ nhận và sự phối hợp tích cực của hai loại chính sách này là phương án hữu hiệu.
Một vài gợi ý chính sách
Tình trạng dịch bệnh vẫn còn đang tiếp diễn khá phức tạp, do vậy các biện pháp hỗ trợ kinh tế vẫn cần tiếp tục duy trì và bằng mọi cách để cho những đối tượng đáng được hưởng có khả năng tiếp cận được với các gói hỗ trợ. Bên cạnh đó, cũng cần chuẩn bị cho việc khôi phục, phát triển kinh tế khi dịnh bệnh suy giảm. Thiết nghĩ, sự phối hợp tích cực giữa CSTK và CSTT cũng là giải pháp giúp sức cho sự phục hồi của nền kinh tế. Xin chia sẻ một vài gợi ý cho vấn đề này.
(i) Sử dụng công cụ lãi suất một cách hợp lý. Lãi suất là công cụ của CSTT, gián tiếp điều tiết khối lượng tiền tệ. Thông qua việc điều chỉnh lãi suất, NHTW không chỉ đảm bảo được giới hạn ngân quỹ của kinh tế vĩ mô bằng việc duy trì sự khan hiếm của đồng tiền mà còn đảm bảo tính linh hoạt cần thiết cho việc cung ứng tiền tệ cho các TCTD. Khi nhu cầu tiền tệ vượt ra ngoài hành lang đã quy định cho việc gia tăng khối lượng tiền tệ thì về cơ bản NHTW vẫn phải đáp ứng, nhưng với lãi suất cao hơn nhằm tác động một cách trung hạn vào sự đẩy lùi việc bùng nổ khối lượng tiền tệ và ngược lại. Tuy vậy, việc điều chỉnh lãi suất luôn cần sự linh hoạt, nhạy bén vì trên thực tế, những dao động hàng ngày và thời vụ của nhu cầu tiền tệ, những cơn sốc từ bên ngoài và nhiều yếu tố khác luôn đòi hỏi phải có sự thay đổi tương ứng trong việc cung ứng tiền tệ. Mặt khác, cũng không thể bỏ qua nguyên tắc chênh lệch lãi suất dương đối với các TCTD. Các TCTD là các doanh nghiệp kinh doanh theo lợi nhuận, nên họ cần phải có chênh lệch lãi suất dương (chênh lệch giữa lãi suất cho vay với lãi suất huy động và giữa lãi suất cho vay với lãi suất tái cấp vốn). Nếu do những quy định pháp lý hoặc những yêu cầu có tính bắt buộc mà chênh lệch lãi suất này bị âm thì các TCTD kinh doanh bị lỗ; Và nếu chênh lệch lãi suất âm lại được bù đắp thiệt hại thông qua quá trình tiền tệ hoá hay gia tăng khoản nợ của nhà nước - trong mọi trường hợp đều dẫn tới hậu quả tiêu cực.
(ii) Luôn tuân thủ đúng các nguyên tắc tín dụng kể cả khi cần thiết phải nới lỏng CSTT. Các nguyên tắc khi đặt ra đều có cơ sở của nó, khi đã là nguyên tắc rồi, nếu vi phạm thì chắc chắn có nhiều nguy cơ và những hậu quả khó lường. Thời gian qua, đã có những kêu ca phàn nàn về khó khăn khi các doanh nghiệp muốn tiếp cận nguồn vốn từ gói hỗ trợ 300.000 tỷ đồng. Để các doanh nghiệp có thể tiếp cận được nguồn vốn này thì các ngân hàng vừa phải cho vay mà lại cho vay với lãi suất thấp - quả là không dễ dàng gì cho các ngân hàng. Muốn cho vay thì phải huy động được nguồn vốn, nhưng huy động với lãi suất thấp sẽ rất khó khăn (nguyên tắc chênh lệch lãi suất dương chi phối); và khi có nguồn vốn rồi thì không phải cho vay với đối tượng nào cũng được (nguyên tắc an toàn - cho vay phải hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi chi phối). Điều chỉnh phân loại nợ, giãn nợ… cũng đều là những bài toán khó cho việc duy trì nguyên tắc an toàn trong hoạt động tín dụng. Mặc dù vậy, trong thời gian qua các TCTD vẫn giảm được lãi suất, vẫn giãn nợ… cho khách hàng. Những quyết sách đưa ra trong thời gian qua khá thành công, chứng tỏ sự vững vàng trong điều hành CSTT của NHNN. Một mặt, kết quả này cho thấy sự nỗ lực của cả NHNN và các TCTD trong việc thực thi CSTT trong hoàn cảnh bất thường, nhưng mặt khác cũng không thể thừa nhận rằng dư địa của CSTT vẫn còn. Chắc chắn trong thời gian tới sẽ khó khăn hơn- lãi suất không thể giảm tiếp tục; việc giãn nợ, giữ nguyên nhóm nợ… để hỗ trợ cho doanh nghiệp ứng phó với dịch bệnh có nhiều khả năng làm rủi ro gia tăng và suy yếu hệ thống. Do vậy, ngành Ngân hàng cần có một sự chuẩn bị tích cực và toàn diện- một mặt cũng là để “ứng phó” kịp thời cho những tình huống xấu sau dịch bệnh và mặt khác, vẫn duy trì và nâng cao khả năng điều tiết, cung ứng vốn cho nền kinh tế hồi phục và phát triển.
(iii) Phát hành trái phiếu khôi phục và phát triển kinh tế. Khôi phục và phát triển kinh tế sau đại dịch rất cần có một nguồn vốn lớn - đây là bài toán khó và cần có những tính toán kỹ lưỡng và cẩn trọng. Song trên tất cả, thiết nghĩ việc phát hành trái phiếu là biện pháp có tính khả thi - cả trái phiếu chính phủ, trái phiếu ngân hàng và trái phiếu doanh nghiệp. Tất nhiên cũng còn có nhiều vấn đề cần bàn về thị trường trái phiếu Việt Nam, đặc biệt vẫn còn không ít những lo âu về rủi ro, về những bất ổn trên thị trường trái phiếu. Là một bộ phận của thị trường vốn, thị trường trái phiếu có vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn cho đầu tư, nâng cao hiệu quả luân chuyển vốn trong xã hội. Trong các giai đoạn khủng hoảng của nền kinh tế, để đối phó với các cú sốc kinh tế, công cụ được sử dụng khá phổ biến của hầu hết các quốc gia để tăng cung tiền là mua trái phiếu kho bạc và mua chứng khoán được bảo đảm bằng tài sản thế chấp (MBS). Tuy nhiên để phát hành trái phiếu được thuận lợi thì cần phải có một thị trường trái phiếu phát triển. Những bất cập hiện tại của thị trường trái phiếu Việt Nam làm hạn chế nhiều đến khả năng huy động nguồn lực trong nền kinh tế.
(iv) Sử dụng nguồn ngân sách\ không bị thâm hụt: Bên cạnh những yêu cầu cẩn trọng trong việc sử dụng CSTT cho mục tiêu của chính sách hỗ trợ kinh tế thì việc cần thiết phải có một CSTK tích cực của nhà nước là sự đòi hỏi khách quan của nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu không muốn gây ảnh hưởng tiêu cục tới sự ổn định của đồng nội tệ, thì điều then chốt là nhà nước phải dùng nguồn vốn ngân sách để tài trợ và các khoản tài trợ này phải được thực hiện bằng nguồn ngân sách không bị thâm hụt. Và trong hoàn cảnh này dĩ nhiên ngân sách phải quyết liệt hơn trong việc thực hiện tăng thu, giảm chi và sử dụng có hiệu quả nợ công, từng bước phục hồi lại kỷ luật tài khóa để đảm bảo sự bền vững của ngân sách trong dài hạn.
(v) Trường hợp thâm hụt ngân sách: Việc đảm bảo ổn định tiền tệ là chức năng chính của NHTW, vì thế một khi sử dụng vai trò điều hành CSTT của NHTW cho những mục tiêu chính sách thường mâu thuẫn với chức năng mà NHTW phải đảm nhận. Do vậy, cần lưu ý đến những khả năng nhà nước có thể bù đắp thâm hụt ngân sách mà không gây hậu quả cho CSTT, đó là: (i) Trái phiếu do nhà nước phát hành nhằm tài trợ thâm hụt phải được người mua chấp nhận một cách tự nguyện. Điều đó chỉ có thể xảy ra khi khả năng hoàn trả của trái phiếu được đảm bảo và có mức lãi suất hợp lý; (ii) Nhà nước muốn vay từ NHTW thì cũng giống như các đối tượng khách hàng khác - nhà nước buộc phải hoàn trả nợ gốc và lãi cho NHTW khi đến hạn.
KẾT LUẬN
Trước cú sốc kinh tế từ đại dịch COVID -19, Việt Nam đã vận hành đồng thời cả CSTK và CSTT một cách hiệu quả. Vì vậy cần phải tiếp tục tăng cường sự phối hợp này sao cho sự vận hành của CSTK và CSTT được nhịp nhàng, chặt chẽ hơn để nâng cao hiệu lực truyền dẫn của các chính sách đến nền kinh tế giai đoạn sau đại dịch, góp phần khôi phục nhanh sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, trên cơ sở đó đưa các nền tảng phát triển kinh tế - xã hội trở về trạng thái bình thường.
Tài liệu tham khảo
1) https://doanhnhandatviet.com.vn/tang-truong-gdp-cua-viet-nam-thuoc-nhom-cao-nhat-the-gioi/
(2) https://vi.wikipedia.org/wiki/Đại_dịch_covid-19_theo_quốc_gia_và_vùng_lãnh_ thổ
(3) https://reatimes.vn/ts-can-van-luc-du-bao-trien-vong-kinh-te-viet-nam-nam-2021-20201224000000164.html
(4) https://www.tienphong.vn/kinh-te/gan-80-doanh-nghiep-chua-tiep-can-duoc-cac-goi-ho-tro-do-dich-covid19-1761032.tpo
(5) https://haiquanonline.com.vn/98-doanh-nghiep-duoc-huong-loi-neu-chinh-sach-gia-han-thue-duoc-ban-hanh-124153.html
(6) https://vnexpress.net/cuoc-khung-hoang-kinh-te-toan-cau-dat-do-nam-2008-3809531.html
(7) “Chính sách tiền tệ độc đáo”- https://www.rba.gov.au/education/resources/explainers /unconventional-monetary-policy.html
(8) https://bitcoinvietnamnews.com/noi-long-dinh-luong-la-gi
(9) Nguyễn Thị Nhung (2009), Chính sách tiền tệ trong vai trò điều tiết họat động của các NHTM, Tạp chí Ngân hàng.
(10) PGS. TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương, Chính sách thuế hỗ trợ doanh nghiệp và người dân trong bối cảnh dịch Covid-19, Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 8 năm 2020
(11) Phạm Thế Anh (2013), “Kinh tế Việt Nam- Từ chính sách ổn định tổng cầu sang chính sách trọng cung để thúc đẩy tăng trưởng dài hạn”, Nhà xuất bản Tri Thức.
(12) Trần Hùng Sơn và Trần Thanh Thuý, Lựa chọn tài trợ cho chính sách tài khóa trong bối cảnh Covid-19, TCNH số 16/20
(13) https://www.kinhtevadoisong.vn/cac-nuoc-dang-dung-chinh-sach-tien-te-va-tai-khoa-nhu-the-nao-de-vuot-kho-khan-do-covid-19-6679.html
(14) https://tinnhanhchungkhoan.vn/ban-ve-chinh-sach-tien-te-va-tai-khoa-doi-pho-voi-dich-covid-19-post240696.html
Bài đăng trên Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 9/2021