Tiềm năng phát triển ngân hàng mở
Tin Hiệp hội Ngân hàng - Ngày đăng : 21:04, 16/03/2022
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Tiến Dũng tham dự và phát biểu tại Hội thảo |
Ngày 16/3, Ủy ban Chính sách thuộc Hội đồng Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam tổ chức Hội thảo quốc tế “Tiềm năng phát triển ngân hàng mở tại Việt Nam – Những khuyến nghị về chính sách và khuôn khổ pháp lý”. Đây là diễn đàn để các chuyên gia, nhà quản lý, các ngân hàng cùng thảo luận, trao đổi về tiềm năng cũng như chính sách, khuôn khổ pháp lý để tiềm năng đó trở thành hiện thực với lĩnh vực ngân hàng mở ở Việt Nam.
Ngân hàng mở (Open Banking) là mô hình mới và xu hướng tất yếu
Phát biểu tại hội thảo, TS. Nguyễn Quốc Hùng - Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đánh giá cao ý tưởng tổ chức Hội thảo của Ủy ban Chính sách và cho rằng ngân hàng mở (Open Banking) là một mô hình kinh doanh mới và tiềm năng, giúp các ngân hàng tiếp cận đa dạng đối tượng khách hàng với chi phí hợp lý thông qua các ứng dụng khác của đối tác, rút ngắn lại quá trình xử lý giao dịch, giảm thiểu các tác vụ thủ công, xây dựng các giải pháp kinh doanh tối ưu và cung cấp được dịch vụ toàn diện, tiện lợi nhất cho khách hàng.
Nền tảng ngân hàng mở còn góp phần kết nối và lồng ghép các dịch vụ ngân hàng vào các lĩnh vực của cuộc sống, ví dụ như thanh toán hóa đơn điện nước, viễn thông, thanh toán trong lĩnh vực y tế, giáo dục, dịch vụ công trực tuyến …
Theo TS. Nguyễn Quốc Hùng, các ngân hàng có thể tạo ra các sản phẩm dịch vụ mang tính cá nhân hóa, từ đó giữ chân khách hàng và tăng lượng khách hàng thân thiết. Ngoài ra, quyền truy cập vào dữ liệu khách hàng còn hỗ trợ cho việc các ngân hàng chấm điểm tín dụng khách hàng một cách chính xác. “Ngân hàng mở cho phép các bên thứ ba phát triển các ứng dụng quản lý tài chính cá nhân (PFM) tốt hơn, thúc đẩy sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng, buộc các ngân hàng truyền thống phải tăng cường các dịch vụ tài chính", ông Hùng nhận định.
Tuy nhiên, theo TS. Nguyễn Quốc Hùng, sự dịch chuyển mô hình kinh doanh ngân hàng từ hệ sinh thái đóng sang hệ sinh thái mở sẽ là bước đột phá quan trọng mang lại nhiều lợi ích hơn cho nền kinh tế, nhưng những rủi ro, thách thức vẫn đi cùng là điều khó tránh. Ngân hàng mở là xu hướng tất yếu của hoạt động kinh doanh ngân hàng trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0. Vì vậy, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần chủ động tích cực trong quá trình chuyển đổi, bảo đảm lợi thế cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu của lộ trình xây dựng hệ thống ngân hàng số quốc gia. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý cũng cần đẩy nhanh việc hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan đến áp dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng.
Đồng quan điểm trên, ông Trần Phương - Chủ nhiệm Ủy ban Chính sách (Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam), Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cho biết, chuyển đổi số là dịch chuyển mô hình kinh doanh sang hệ sinh thái mở, ngân hàng mở là xu hướng tất yếu hiện nay. Do đó, một mặt các ngân hàng Việt Nam cần chủ động và tích cực trong quá trình chuyển đổi mô hình, một mặt cơ quan quản lý cần đồng hành hình thành cơ chế chính sách pháp lý phù hợp. Ở góc độ Ủy ban chính sách mong muốn đóng góp ý kiến tham mưu để Ngân hàng Nhà nước, các bộ, ngành xây dựng chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy thị trường phát triển bền vững.
Cũng theo ông Phương, nhìn ra thế giới hiện có 2 cách tiếp cận chính sách đối với mô hình ngân hàng mở. Liên minh châu Âu, Anh và Úc có quy định bắt buộc ngân hàng phải chia sẻ dữ liệu trong khi tại châu Á như Singapore, Hồng Kông... lại cho phép tự quyết việc ngân hàng có cộng tác với đối tác hay không tuỳ thuộc vào giao dịch cụ thể, ngân hàng cụ thể, hợp tác cụ thể... Do vậy, việc tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế, các chính sách và ứng dụng cụ thể sẽ rất hữu ích trong việc xây dựng chính sách cho mô hình ngân hàng mở tại Việt Nam.
Toàn cảnh hội thảo |
Nói về xu hướng ngân hàng mở và thực tiễn triển khai tại ngân hàng, ông Trần Công Quỳnh Lân, Chủ nhiệm Ủy ban Công nghệ (Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam), Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) cho biết, ngân hàng mở sẽ giúp khách hàng nâng cao trải nghiệm giao dịch tài chính, tiết kiệm chi phí qua trung gian và quản lý tài chính tốt hơn. Đối với ngân hàng, sẽ thiết lập được hệ sinh thái phục vụ tối đa nhu cầu của khách hàng, đồng thời mở rộng dịch vụ sản phẩm, khai thác được tệp khách hàng mới. Tại VietinBank đã xác định hướng đi và lộ trình triển khai ngân hàng mở từ rất sớm từ năm 2017, nhiều dịch vụ của đối tác đã được cung cấp trên ứng dụng VietinBank iConnect và trung bình mỗi tháng có hơn 12 triệu giao dịch tài chính được thực hiện qua nền tảng này.
Tuy nhiên theo ông Lân, việc triển khai ngân hàng mở cũng gặp nhiều khó khăn và thách thức, nhất là vấn đề hành lang pháp lý cụ thể, bởi hiện nay chưa có quy định hướng dẫn về Open API (những dịch vụ nào, dữ liệu nào các đối tác có thể sử dụng…). Đồng thời cũng chưa có tiêu chuẩn chung về hệ thống công nghệ thông tin, lưu trữ thông tin, bảo mật, kết nối….
Chia sẻ kinh nghiệm phát triển ngân hàng mở từ góc nhìn khu vực, ông Jonathan Cheung, Giám đốc Open Banking & API, Standard Chartered HongKong (Trung Quốc) cho biết, việc triển khai ngân hàng mở sẽ xuất hiện mô hình ‘tài chính nhúng’ (Embedded Finance), trong đó các ngân hàng thuần túy kỹ thuật số hợp tác với các tổ chức ngoài ngành ngân hàng như các công ty viễn thông/bán lẻ/thương mại điện tử,… bổ sung các thành phần dịch vụ tài chính (Financial Services) vào hành trình của khách hàng. Chẳng hạn, Standard Chartered và Bukalapak sẽ cung cấp một số dịch vụ tài chính sáng tạo thông qua hệ sinh thái của Bukalapak. Hay như cho phép Sociolla cung cấp các sản phẩm tài chính như tài khoản tiết kiệm, các khoản vay và thẻ tín dụng được Nexus hỗ trợ, sau khi có sự phê duyệt của cơ quan quản lý.
Ông Jonathan Cheung cũng lưu ý các ngân hàng khi triển khai ngân hàng mở xác định tình huống kinh doanh, so sánh giữa chi phí và lợi ích. Đặc biệt, cần nghiên cứu xem khách hàng đã sẵn sàng đến mức độ nào cho một trải nghiệm ngân hàng mở/"ngân hàng nhúng" (đặc biệt là khi được yêu cầu chia sẻ dữ liệu của họ).
Ông Dilip Krishnan - Lãnh đạo toàn cầu, Giám đốc thực hành chuyển đổi kỹ thuật số thuộc bộ phận Dịch vụ và Dữ liệu của Mastercard cho biết, ngân hàng mở là xu thế tất yếu trên toàn cầu, đang được triển khai trên toàn thế giới do nhu cầu của thị trường hoặc theo yêu cầu của quy định quản lý nhằm khuyến khích đổi mới sáng tạo, cạnh tranh, quyền riêng tư về dữ liệu và tài chính bao trùm.
Tại Singapore đã áp dụng API mở từ năm 2016 và SGFinDex đi vào hoạt động từ tháng 12/2020. Tại Nhật Bản, các ngân hàng bắt buộc áp dụng API mở từ năm 2021. Còn tại Malaysia hiện cũng đang xây dựng khung quy định về ngân hàng mở. Tuy nhiên, nhiều nước vẫn hạn chế việc truy cập sử dụng dữ liệu khách hàng của bên thứ ba ở mức đọc thông tin về tài khoản, số dư và khởi tạo thanh toán.
Các diễn giả tham dự tại các điểm cầu trong nước và quốc tế - Ảnh chụp màn hình |
Là chuyên gia dày dặn kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV cho biết, công nghệ đã giúp ngành tài chính - ngân hàng chuyển đổi số tương đối tốt. Công nghệ lõi hầu như đã được áp dụng vào hầu hết các nhiệm vụ chính của hệ thống ngân hàng, bao gồm dịch vụ thanh toán, dịch vụ tư vấn và đại lý, đầu tư và tự doanh, cho vay và tài trợ, bảo hiểm, chứng khoán, tác nghiệp, giao dịch và an ninh mạng.
Theo ông Lực, có rất nhiều dịch vụ tài chính mới nổi đã và đang phát triển, trong đó có ngân hàng mở trên nền tảng giao diện lập trình ứng dụng, cho vay ngang hàng (P2P lending), huy động vốn cộng đồng (crowd funding). Còn chứng khoán số (digital securities), bảo hiểm số (InsurTech), bất động sản số (proptech) có vẻ chậm hơn so với tài chính - ngân hàng.
Đối với ngân hàng mở, có 3 mô hình phố biến là thực cộng (tức là ngân hàng ngoài dịch vụ cốt lõi còn tích hợp thêm các dịch vụ của đối tác thứ ba trong hệ sinh thái và bán hàng cho khách hàng). Hiện nay, các ngân hàng tại Việt Nam chủ yếu đang đi theo mô hình này. Thứ hai là mô hình bị động. Với mô hình này, ngân hàng sẽ là đại lý, kênh phân phối cho bên thứ ba quy mô lớn nào đó, ví dụ như bigtech. “Một vài ngân hàng nhỏ hay quỹ tín dụng có thể đi theo mô hình này’, ông Lực nói.
Thứ ba là mô hình tích hợp tương đối tối ưu, phù hợp với xu hướng và xu thế. Với mô hình này, ngân hàng sẽ ở thế chủ động, làm chủ nền tảng và có quyền cho phép bên thứ ba kết nối đóng hoặc mở, tuỳ theo cách thức tiếp cận rủi ro của mỗi ngân hàng. Như vậy, ngân hàng có thể tiếp cận được nhiều sản phẩm dịch vụ khác nhau, cả ngân hàng và dịch vụ phi ngân hàng cùng lúc.
“Đây là mô hình tôi rất khuyến khích các ngân hàng Việt Nam nên tiếp cận. Mô hình tối ưu này tạo ra một hệ sinh thái tuyệt vời cho hệ thống ngân hàng, bao gồm các dịch vụ ngân hàng cơ bản, dịch vụ ngân hàng bổ sung và dịch vụ phi ngân hàng”, ông Lực khuyến nghị.
Ông Lực cho biết thêm, hiện có 108 quốc gia trên thế giới đã và đang hoàn thiện cơ chế chính sách để cho phép triển khai ngân hàng mở một cách bài bản, hệ thống. Riêng trong năm 2021, đã có khoảng 1.537 ngân hàng cung cấp nền tảng ngân hàng mở, tăng 175% so với năm trước.
Cần chính sách, khung pháp lý phù hợp cho ngân hàng mở
Chia sẻ về hành lang pháp lý đối với ngân hàng mở tại Việt Nam, ông Đoàn Thanh Hải – Phó Cục trưởng Cục CNTT (Ngân hàng Nhà nước) cho biết, hiện nay đã có một số quy định về trách nhiệm của ngân hàng trong việc bảo mật thông tin khách hàng; quy định về quyền được cung cấp thông tin của khách hàng, đảm bảo bí mật thông tin khách hàng và Quy định về xử lý vi phạm về thông tin cá nhân được quy định cụ thể ở Bộ luật Dân sự 2015, Luật Giao dịch điện tử, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật An toàn thông tin mạng 2015 và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Tuy nhiên, cần hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung và ban hành các Nghị định về bảo vệ dữ liệu cá nhân, về định danh và xác thực điện tử, về thanh toán.
Phát biểu chỉ đạo tại hội thảo, ông Phạm Tiến Dũng, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, ngân hàng mở là nội dung mới, cần tiếp tục nghiên cứu bởi những nội dung mới cần được hiểu rõ đúng đủ bản chất sự việc thì mới ban hành chính sách được. Tuy nhiên qua hội thảo này, Phó Thống đốc cho rằng ngân hàng mở là xu thế phát triển và mang lại nhiều lợi ích cho ngân hàng.
“Hội thảo mang lại nhiều kiến thức, hiểu biết. Các ngân hàng Việt Nam sẽ đi theo xu hướng của ngân hàng mở nhưng để làm được cần sự phối hợp chủ trì của nhiều bên liên quan”, Phó Thống đốc nói.
Theo Phó Thống đốc, lộ trình trong thời gian sắp tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ hoàn thiện dự thảo thay thế Nghị định 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt và ban hành Thông tư về Open API trong lĩnh vực thanh toán. Chính phủ cũng sẽ ban hành Nghị định về bảo vệ dữ liệu cá nhân, định danh và xác thực điện tử, liên quan trực tiếp hoạt động của các ngân hàng và cả hệ thống ngân hàng nên các ngân hàng và đơn vị của Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp triển khai hiệu quả.
Phó Thống đốc cũng lưu ý Ủy ban chính sách và Hiệp hội Ngân hàng cần tiếp tục nghiên cứu chủ đề này, cố gắng chỉ rõ, đề xuất rõ các dịch vụ triển khai trên Open API, từ đó có cơ sở tham mưu cho Ngân hàng Nhà nước, các bộ ngành và Chính phủ ban hành các văn bản, chính sách phù hợp để phát triển ngân hàng mở tại Việt Nam.
Ông Trần Phương - Chủ nhiệm Ủy ban Chính sách (Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam) cũng cho biết thêm, ngân hàng mở là mô hình kinh doanh mới sẽ đặt ra nhiều thách thức cần giải quyết. Các ngân hàng không chỉ đơn thuần cung cấp dịch vụ tài chính theo mô hình cũ mà thông qua Open API kết nối với các đối tác, đặc biệt là các công ty Fintech, ngân hàng sẽ cung cấp dịch vụ của mình theo mô hình nền tảng, tạo điều kiện cho bên thứ ba xây dựng các ứng dụng có sử dụng dữ liệu của ngân hàng, phục vụ tốt nhất cho các nhu cầu đa dạng của khách hàng.
“Open Banking là một mô hình kinh doanh, mô hình hợp tác trong khi Open API là phương thức kết nối”, ông Phương chia sẻ và cho rằng các ngân hàng cần phải xác định chiến lược kinh doanh định hướng đáp ứng nhu cầu khách hàng, cơ quan quản lý, nhà cung cấp dịch vụ kỹ thuật, yêu cầu nội bộ, cho phép thích ứng dễ dàng với nhu cầu của khách hàng. Yêu cầu tích hợp Open API vào các ứng dụng công nghệ thông tin hiện có.
Các ngân hàng thương mại cũng cần xây dựng các tiêu chí, các yêu cầu kỹ thuật, kinh doanh để các bên thứ ba hợp tác. Cần đảm bảo các bộ phận rủi ro, pháp lý, tuân thủ tham gia ngay từ đầu của quá trình thay đổi. Phát triển các sản phẩm dịch vụ số đa dạng. Ông Trần Phương cũng kiến nghị các cơ quan chức năng, cơ quan quản lý Nhà nước cần tạo lập chính sách và khung pháp lý phù hợp để tạo điều kiện cho các ngân hàng chuyển đổi dịch vụ ngân hàng sang dịch vụ nền tảng.