Liên kết tiểu vùng Nam Trung Bộ: Giải bài toán khoa học công nghệ và nguồn nhân lực
Các Hiệp hội ngành, nghề - Ngày đăng : 10:24, 25/06/2022
Quang cảnh Tọa đàm |
Chưa bền vững
Ngày 24/6, Ban Chỉ đạo Tổng kết Nghị quyết 39-NQ/TW về phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 phối hợp với Tỉnh ủy Khánh Hòa tổ chức Tọa đàm "Liên kết phát triển tiểu vùng Nam Trung Bộ trong bối cảnh mới". Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ gồm 14 tỉnh thành, là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng của cả nước, trong đó tiểu vùng Nam Trung Bộ gồm: Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.
Phát biểu tại Tọa đàm, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế TW, Trưởng Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết Trần Tuấn Anh đã đánh giá một số kết quả đạt được trong việc triển khai Nghị quyết 39-NQ/TW năm 2004 và Kết luận 25- KL/TW năm 2012 của Bộ Chính trị.
Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh phát biểu |
Trưởng ban Kinh tế TW nhấn mạnh, KT-XH của một số địa phương trong tiểu vùng vẫn còn khó khăn; 3/4 địa phương trong tiểu vùng chưa tự cân đối được ngân sách; quy mô nền kinh tế tiểu vùng còn nhỏ và dễ bị tổn thương; chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, chưa có sự đột phá; tỷ trọng nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn còn khá lớn; các ngành thâm dụng lao động và giá trị gia tăng cao chưa có tỷ trọng lớn và chưa giữ được vai trò chủ đạo.
Đặc biệt, môi trường đầu tư kinh doanh cải thiện chậm; nguồn vốn đầu tư mới đáp ứng một phần yêu cầu phát triển. Cùng với đó, hệ thống cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh và không đồng bộ; chưa thích ứng với các tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu. Tình trạng mở rộng đô thị có mật độ thấp, sử dụng đất đai chưa hiệu quả, tính cạnh tranh của các đô thị không cao, chưa đáp ứng được các yêu cầu của phát triển bền vững. Các đô thị chưa được liên kết tốt với nhau tạo thành một hệ thống thống nhất; huy động các nguồn lực cho phát triển đô thị còn hạn chế. Tài nguyên chưa được khai thác, sử dụng hiệu quả để trở thành nguồn lực quan trọng cho phát triển, nhất là cảng biển.
Trưởng ban Kinh tế TW cũng để cập đến một thực tế là phần lớn DN là DN nhỏ và vừa có năng lực cạnh tranh thấp, dễ bị tổn thương trước các tác động bất lợi. Đặc biệt, quá trình phát triển đã xuất hiện tình trạng xung đột lợi ích giữa các địa phương, lợi ích giữa từng địa phương với lợi ích tiểu vùng, toàn vùng. Liên kết vùng còn lỏng lẻo, lúng túng, bị động; thiếu vai trò “Nhạc trưởng” định hướng, dẫn dắt của Nhà nước, lợi thế quy mô nhiều ngành, lĩnh vực chưa được khai thác, phát huy...
Mỗi nơi một kiểu…
Tại Tọa đàm, nhiều ý kiến đồng tình cho rằng, liên kết phát triển các địa phương trong tiểu vùng đã và đang nhận được nhiều sự quan tâm các cấp, các ngành, các nhà quản lý, các nhà hoạch định quy hoạch, chính sách phát triển và bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định trong thời gian qua.
Tuy nhiên, dù các địa phương trong tiểu vùng đã lồng ghép những định hướng liên kết phát triển trong các quy hoạch, chương trình được ban hành nhưng mức độ liên kết chưa cao. Từ liên kết trong xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển, liên kết thu hút đầu tư phát triển, liên kết phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, liên kết trong phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN), liên kết về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, liên kết trong khai thác, sử dụng tài nguyên... đều bộc lộ những hạn chế, yếu kém.
Đơn cử nhưng trong lĩnh vực KH&CN, không những vốn đầu tư cho lĩnh vực này của các tỉnh thuộc tiểu vùng Nam Trung Bộ rất thấp (dưới 1% so với tổng vốn đầu tư ở thời điểm năm 2020, riêng Ninh Thuận chỉ có 0,03%) mà phát triển KH&CN chủ yếu được thực hiện ở phạm vi từng địa phương và thiếu sự hợp tác, liên kết trong nghiên cứu và ứng dụng KH&CN.
Hay như đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp của tiểu vùng tương đối cao (3,16% năm 2020) do nhân lực thừa về số lượng nhưng thiếu về chất lượng, Trong tiểu vùng có nhiều ngành, nghề có thể liên kết với nhau để đào tạo, nhưng thực tế cho thấy chưa có sự liên kết đào tạo giữa các trường đại học, cao đẳng trong tiểu vùng, kể cả trong một tỉnh…
Đâu là lời giải?
Liên quan đên liên kết trong phát triển KH&CN, tại Tọa đàm, nhiều ý kiến cho rằng các địa phương trong tiểu vùng nên có sự phân công nhiệm vụ, liên kết đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và phát triển R&D (mỗi tỉnh nghiên cứu một hay vài lĩnh vực mà địa phương mình có thế mạnh) và ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển mạnh mẽ các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Hiện tại, phát triển KH&CN chủ yếu được thực hiện ở phạm vi từng địa phương và thiếu sự hợp tác, liên kết trong nghiên cứu và ứng dụng KH&CN. Các tổ chức KH&CN tại các địa phương trong tiểu vùng có cùng lĩnh vực, tính chất nghiên cứu cần được tăng cường mối liên kết để phát triển thị trường công nghệ trong tiểu vùng, trong vùng, quốc gia và quốc tế cũng như đẩy mạnh hoạt động chuyển giao công nghệ giữa các địa phương. Tạo điều kiện và đẩy mạnh liên kết, phối hợp giữa DN với các viện nghiên cứu, trường đại học, các tổ chức nghiên cứu trong và ngoài nước. Hỗ trợ, hợp tác, liên kết giữa các DN, đặc biệt là các DN nhỏ và vừa hiện có năng lực công nghệ hạn chế cũng như nguồn lực cho phát triển hoạt động R&D và ứng dụng các công nghệ mới.
Cùng với đó, các địa phương trong tiểu vùng cần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực thông qua tăng cường sự liên kết giữa các cơ sở đào tạo, DN và chính quyền địa phương ở tiểu vùng. Tăng cường sự liên kết sẽ giúp các cơ sở đào tạo hướng đến nhất lượng nguồn nhân lực và phù hợp với nhu cầu của thị trường. Một trong những yếu điểm lớn về đào tạo nguồn nhân lực ở tiểu vùng đó là chưa đa dạng hóa về các loại hình và mở rộng quy mô đào tạo nên chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế nguồn nhân lực. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đang tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu ngành nghề trong toàn tiểu vùng cũng xuất hiện ngày càng nhiều ngành, nghề mới đòi hỏi ứng dụng công nghệ cao. Việc liên kết đào tạo dựa trên thế mạnh của các cơ sở đào tạo, đặc điểm và định hướng phát triển KT - XH của từng địa phương là cần thiết để có sự phân công trong công tác đào tạo phù hợp tại tiểu vùng (như Đại học Nha Trang có vai trò đầu tàu trong đào tạo các ngành nghề về thủy sản cần đẩy mạnh liên kết với các trường, cơ sở đào tạo trong tiểu vùng về lĩnh vực này).
Bên cạnh đó, nhà nước và các tổ chức trung gian cần hỗ trợ nhiều hơn nữa trong việc kết nối thông tin về nhu cầu nhân lực của toàn tiểu vùng nói chung và của từng địa phương trong tiểu vùng nói riêng để có kế hoạch đào tạo hợp lý và hiệu quả.
Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Duy Đông: “Cần thiết phải xây dựng một cơ chế điều phối...” Phát biểu tại Tọa đàm, Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Duy Đồng cho biết, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Miền Trung hiện nay chưa có văn bản pháp lý quy định việc thành lập và quy định quy chế hoạt động của tổ chức bộ máy vùng/tiểu vùng với vai trò điều phối hoạt động của các chính quyền địa phương trong vùng. “Sự phối hợp giữa các địa phương mang tính tự phát, chưa toàn diện và thường xuyên, chưa tạo ra sức mạnh tổng hợp, còn mang tính hình thức. Do vậy, chưa tạo ra được hiệu quả phối hợp giải quyết những lĩnh vực chủ yếu trong liên kết vùng, chưa có khả năng xây dựng định hướng, chiến lược, quy hoạch, hoạch định những chính sách riêng biệt thống nhất cho vùng/tiểu vùng, thiếu sự gắn kết, phân công giữa các địa phương trong vùng..”- Thứ trưởng phân tích. Đại diên Bộ KH&ĐT cũng chỉ rõ, công tác tham mưu của các Bộ, ngành còn thiếu chủ động, chưa tập trung vào các hoạt động liên kết, chưa khuyến khích các địa phương trong vùng phối hợp, liên kết phát triển theo ngành, lĩnh vực cụ thể để phát huy tiền năng, lợi thế của địa phương trong khi xuất phát điểm nền kinh tế của các địa phương trong vùng khá thấp, tích lũy đầu tư nhỏ, hiệu quả đầu tư chưa cao; một số địa phương có hạ tầng về cảng biển, sân bay, khu kinh tế và các ngành kinh tế chủ lực tại các khu kinh tế, khu công nghiệp của các địa phương có sự trùng lắp nên có sự phân tán nguồn lực đầu tư (cả nhà nước lẫn tư nhân). Do vậy, sự hợp tác và liên kết vùng chưa mang lại hiệu quả từ quy hoạch phát triển vùng, thu hút đầu tư, phân bổ nguồn lực đến cơ chế phối hợp điều hành. “Việc liên kết vùng và kinh tế vùng mới chỉ dừng lại ở chủ trương chung nên khi triển khai thực hiện là tự phát, chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả. Do vậy, cần thiết phải xây dựng một cơ chế điều phối, liên kết vùng hiệu quả, thực chất trong đó Nhà nước phải là nơi định hướng cho việc quy hoạch liên kết vùng...”- Đại diện Bộ KH&ĐT đề nghị.. TS. Trần Du Lịch: “Cho dù liên kết phát triển giữa các tiểu vùng, vùng đang là nhu cầu thực tiễn, bức thiết để thúc đẩy phát triển KT-XH và bảo đảm quốc phòng, an ninh trong bối cảnh mới nhưng thực tiễn hiện nay nếu không có những cơ chế điều phối đột phá từ Trung ương thì tồn tại này vẫn khó có thể khắc phục được trong thời gian tới...” TS. Võ Trí Thành: “Cái quan trọng nhất trong liên kết vùng là phải có người cầm trịch, hay là bộ máy cơ chế liên kết vùng. Trong bối cảnh hiện nay khi mà vẫn còn chữ “Tôi”, chữ “Anh”, viết hoa chưa có thể thay đổi được, làm thế nào để chữ “Chúng ta” tốt cho cả chữ “Tô”i, chữ “Anh” tốt dần cho cả chữ Chúng ta thì chắc chắn là cái cơ chế đòi hỏi chưa phải sửa đổi quá nhiều pháp lý nhưng mà lại có những quyền hạn, năng lực nhất định trong điều phối vùng và huy động nguồn lực, nhưng đằng sau đấy chính là cơ chế giám sát và hệ thống động lực để cho bộ máy hoạt động…”
|