Huy động nguồn lực và phát huy thế mạnh cho phát triển công nghiệp
Các Hiệp hội ngành, nghề - Ngày đăng : 15:25, 19/07/2022
Ngày 18/7/2022, đoàn công tác của Ban chỉ đạo xây dựng Đề án "Chủ trương, chính sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Ban Chỉ đạo) đã có buổi làm việc với Bộ Công Thương.
Toàn cảnh buổi làm việc |
Quá trình CNH, HĐH đất nước chưa thực sự đầy đủ
Tại buổi làm việc, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế TW, Trưởng Ban Chỉ đạo Trần Tuấn Anh khẳng định, trong những năm qua, chủ trương, đường lối về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại họa (CNH, HĐH) đất nước đã được TW Đảng đặc biệt quan tâm xây dựng, hoàn thiện và chỉ đạo triển khai thực hiện xuyên suốt.
“Qua 35 năm thực hiện công cuộc Đổi mới toàn diện và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Việt Nam đã có bước chuyển đổi sâu sắc. Từ một quốc gia kém phát triển, thu nhập bình quân đầu người thấp, đến nay Việt Nam đã thuộc nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình, vị thế trên trường quốc tế ngày càng cải thiện và được đánh giá cao. Việt Nam trở thành đối tác hợp tác tin cậy của nhiều quốc gia trên thế giới.
Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Cơ cấu kinh tế ngành và nội ngành chuyển biến tích cực theo hướng CNH, HĐH; cơ cấu các ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng giảm dần tỉ trọng ngành khai khoáng, tăng nhanh tỷ trọng ngành chế biến, chế tạo; một số sản phẩm công nghiệp xuất khẩu có quy mô lớn, chiếm vị trí vững chắc trên thị trường thế giới; năng lực cạnh tranh toàn cầu của ngành công nghiệp tăng lên, phát triển công nghiệp từng bước đi vào chiều sâu...”- Trưởng Ban Kinh tế TW, Trưởng ban Chỉ đạo nhấn mạnh.
Tuy nhiên, phải nhìn nhận thẳng thắn rằng quá trình CNH, HĐH đất nước vẫn còn chậm, năng lực tự chủ về công nghệ và sản xuất của nền kinh tế còn thấp, việc tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt mục tiêu đề ra, chưa thu hẹp được khoảng cách phát triển và bắt kịp các nước trong khu vực.
“Nhận thức về phát triển nhanh (rút ngắn) quá trình CNH, HĐH đất nước chưa thực sự đầy đủ. Nền kinh tế còn chịu ảnh hưởng mạnh từ biến động hoạt động sản xuất khu vực đầu tư nước ngoài và một số thị trường lớn; chưa phát triển công nghiệp nguyên liệu; cơ chế chính sách ban hành nhiều nhưng còn thiếu đồng bộ, chưa đủ mạnh...” ông Trần Tuấn Anh thẳng thắn nhìn nhận.
Do vậy, thực hiện chương trình công tác của Ban Chấp hành TW khóa XIII, Bộ Chính trị giao Ban Kinh tế TW chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương và các ban, bộ, ngành TW, địa phương xây dựng Đề án "Chủ trương, chính sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” trình Hội nghị TW 6 khóa XIII vào tháng 10 tới.
Triển khai xây dựng Đề án quan trọng này, Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án đã đặt các bộ, ngành và cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng trên 60 báo cáo và chuyên đề, 63/63 địa phương đã có báo cáo theo đề cương, 4 tổ chức quốc tế (WB, UNIDO, AFD, GIZ) cũng đã tham gia tích cực và có các nghiên cứu phục vụ xây dựng Đề án. Đến nay, theo phân công của Thường trực Tổ Biên tập, Bộ Công Thương cũng đã hoàn thành 1 báo cáo và 3 chuyên đề. Đây là nguyên liệu đầu vào có chất lượng cho quá trình xây dựng Đề án.
Công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn giữ vai trò là động lực
Phát biểu tại buổi làm việc, Trưởng Ban Kinh tế TW, Trưởng Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án cho biết, Bộ Công Thương là cơ quan đầu tiên Ban Chỉ đạo tới làm việc trực tiếp sau khi có dự thảo 1 của Đề án. Đồng thời đề nghị các ý kiến tập trung thảo luận, cho ý kiến một số vấn đề như: Đánh giá bối cảnh chung trong nước và quốc tế đang tác động đến Việt Nam nói chung và CNH, HĐH nói riêng; làm rõ mô hình CNH, HĐH của Việt Nam trong thời gian tới; các thành tố chính trong mục tiêu tổng quát của CNH, HĐH đất nước đến năm 2030 là gì? Tầm nhìn đến năm 2045 ra sao? Các mục tiêu/chỉ tiêu cụ thể cần nêu trong Nghị quyết tới sẽ thế nào…
Tại buổi làm việc, đại diện lãnh đạo Bộ Công Thương, đại diện lãnh đạo một số ban, bộ, ngành TW, thành viên Ban Chỉ đạo, Tổ Biên tập cũng như đại diện các vụ, đơn vị của Bộ Công Thương đã tập trung vào một số nội dung quan trọng, cụ thể như quan điểm về: các cơ chế, chính sách, nhiệm vụ và giải pháp có tính chiến lược để nâng cao năng lực tự chủ về công nghệ và sản xuất của nền kinh tế; các ngành công nghiệp nền tảng, ngành/sản phẩm công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mới có tính chiến lược trong thời gian tới là gì? Nên tiếp cận theo ngành hay theo sản phẩm ưu tiên? Các chủ trương, định hướng lớn về chính sách của Đảng đối với phát triển các ngành này? Đâu là những vấn đề cần quyết sách chính trị của Ban Chấp hành TW để tạo sự phát triển đột phá của công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới; việc phân bố không gian phát triển các ngành công nghiệp, phát triển các khu, cụm công nghiệp, cụm liên kết ngành theo lợi thế vùng và các địa phương; tư duy mới trong việc hình thành và phát triển các cụm, khu công nghiệp, cụm liên kết ngành công nghiệp; Vai trò, vị trí của các chủ thể tham gia tiến trình CNH, HĐH đất nước và phát triển công nghiệp trong thời gian tới như thế nào; Phân tích đa chiều về thu hút đầu tư nước ngoài ở Việt Nam; Các nhiệm vụ, giải pháp lớn cần triển khai để khai thác tốt quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là các FTA cho CNH, HĐH; xây dựng Luật phát triển công nghiệp...
Phát biểu kết luận tại Hội nghị, ông Nguyễn Hồng Diên, Ủy viên TW Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương, Phó Trưởng ban Thường trực Ban chỉ đạo nêu rõ các nội dung thống nhất tại Hội nghị:
Thứ nhất, quan điểm CNH, HĐH đất nước trong thời gian tới cần phải thay đổi để phù hợp với bối cảnh mới. Theo đó, chuyển dịch sang mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo gắn với yêu cầu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững và bao trùm.
Nội dung cốt lõi của CNH, HĐH: Tập trung phát triển công nghiệp nền tảng Nội dung cốt lõi của mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới là: Thúc đẩy tự động hóa, số hóa và thông minh hóa các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế và đời sống xã hội thông qua ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ số và các công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; Thực hiện chuyển đổi số, đưa khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực chính để phát triển kinh tế nhanh, bền vững và bao trùm; Nâng cao năng lực tự chủ của nền kinh tế, đặc biệt là tự chủ về công nghệ và sản xuất; Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút, trọng dụng nhân tài, chuyên gia cả trong và ngoài nước. Vì vậy, cần thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới trên cơ sở xác lập lộ trình và bước đi cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm để tạo ra các đột phá phát triển và các cực tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, không đồng nhất công nghiệp hóa với phát triển công nghiệp nhưng phát triển công nghiệp trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn giữ vai trò là động lực, then chốt, nền tảng của quá trình CNH, HĐH.
Thứ ba, trong giai đoạn tới, để công nghiệp trở thành động lực phát triển kinh tế, tạo việc làm và góp phần hoàn thành các mục tiêu về CNH, HĐH đã đặt ra đến năm 2030 và 2045, cần phải có thể chế cho phát triển công nghiệp tốt hơn.
Theo đó, Việt Nam cần có hệ thống giải pháp, chính sách đồng bộ, thống nhất từ lý luận đến thực tiễn để huy động nguồn lực và phát huy thế mạnh cho phát triển công nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh công nghiệp trên thị trường toàn cầu. Trong đó có một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm: Rà soát, thực hiện quy hoạch tổng thể công nghiệp và quy hoạch một số ngành, lĩnh vực công nghiệp quan trọng; Nghiên cứu, xây dựng và ban hành Luật về phát triển công nghiệp; Xây dựng và thiết lập thể chế quản lý vùng để triển khai thực hiện có hiệu quả phân bố không gian phát triển công nghiệp; Ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy tự động hóa, thông minh hóa và xanh hóa ngành công nghiệp; Rà soát, hoàn thiện danh mục các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên theo hướng thu hẹp các ngành và cụ thể hóa tới các phân ngành, sản phẩm ưu tiên để có nguồn lực thực hiện; Chú trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ theo hướng tập trung vào thượng nguồn của các ngành công nghiệp ưu tiên, đặt biệt là các ngành điện tử, cơ khí chế tạo, dệt may - da giầy, hóa chất, công nghệ số; Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật các ngành công nghiệp theo hướng nâng cao, dần tiệm cận các nước phát triển, tạo nền tảng kết nối trong sản xuất thông minh; Nâng cao năng lực tự chủ về công nghệ và sản xuất công nghiệp. Ban hành các chính sách đột phá để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ vào đổi mới, hấp thụ và làm chủ công nghệ, nhất là các công nghệ lõi, công nghệ nguồn, công nghệ số, công nghệ vật liệu cơ bản. Xây dựng và triển khai các chương trình thúc đẩy nghiên cứu, thiết kế, sáng tạo và sản xuất tại Việt Nam...
Thứ tư, để lãnh đạo, chỉ đạo thành công quá trình CNH, HĐH, góp phần thực hiện thành công mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 đã được Đại hội XIII thông qua, các ý kiến đều thống nhất đề nghị sớm ban hành một Nghị quyết của Ban Chấp hành TW về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.