Gỡ “điểm nghẽn” năng suất lao động cho tăng trưởng bền vững
Vấn đề - Nhận định - Ngày đăng : 08:00, 01/12/2022
Quang cảnh hội thảo |
Đang có nhiều điểm nghẽn
Thông tin tại Hội thảo “Thúc đẩy năng suất lao động cho tăng trưởng bền vững ở Việt Nam” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) vừa tổ chức với sự hỗ trợ của Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID), TS Đặng Đức Anh, Phó Viện trưởng CIEM cho biết, ở cấp độ tổng thể nền kinh tế, năng suất lao động (NSLĐ) của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể, tăng 2,5 lần, từ 70,3 triệu đồng/lao động năm 2011 lên 171,8 triệu đồng/lao động năm 2021. Tốc độ tăng trưởng NSLĐ trong 10 năm 2011-2020 đạt 6,0%, trong đó, giai đoạn 2011-2015 đạt 5,5% và giai đoạn 2016-2020 đạt 6,4% (vượt mục tiêu kế hoạch đề ra là 5,0%).
“Tuy vậy, NSLĐ của Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và chênh lệch có xu hướng gia tăng…”, Phó viện trưởng CIEM Đặng Đức Anh nhấn mạnh.
Cũng theo TS Đặng Đức Anh, trong khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, mặc dù NSLĐ thấp nhưng tốc tăng tăng tương đối cao do quá trình chuyển dịch cơ cấu. Trong khi đó, NSLĐ của khu vực công nghiệp - xây dựng thấp và không ổn định, chủ yếu do tham gia ở phân khúc giá trị gia tăng thấp và sử dụng nhiều lao động, chưa thể hiện vai trò dẫn dắt và thúc đẩy tăng trưởng. NSLĐ của khu vực dịch vụ giữ xu hướng tăng nhưng thiếu ổn định và dựa nhiều vào các ngành dịch vụ truyền thống.
Theo vùng kinh tế trọng điểm, NSLĐ không đồng đều, tập trung ở một số thành phố lớn (Hà Nội, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu,...) và chủ yếu ở hai vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và phía Nam.
Đáng lưu ý, tốc độ tăng NSLĐ có xu hướng giảm dần, các địa phương “dẫn dắt” trong vùng chưa phát huy hết vai trò lan tỏa, chưa đóng vai trò thúc đẩy và lôi kéo tăng trưởng của vùng. NSLĐ của khu vực doanh nghiệp đạt 309,9 triệu đồng/lao động trong năm 2020, tăng 93,1% so với năm 2011; mức chênh lệch NSLĐ giữa các loại hình doanh nghiệp ngày càng tăng.
Nhóm nghiên cứu của CIEM cho biết, những rào cản chính đối với doanh nghiệp trong thúc đẩy NSLĐ bao gồm: Sự bất định khi đầu tư vào công nghệ; năng lực đổi mới phản ánh qua chất lượng quản lý còn yếu kém; lực lượng lao động thiếu những kỹ năng cần thiết; và thiếu nguồn vốn đầu tư.
Từ con số thống kê, khảo sát thực tiễn, TS. Võ Trí Thành, nguyên Viện trưởng CIEM phân tích, trong các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, NSLĐ tăng giai đoạn đầu (nhờ công nghệ cải thiện, đầu tư tăng; đảm bảo qui trình cùng kỹ năng theo đòi hỏi...) nhưng sau đó chững lại.
Lấy ví dụ từ THACO, chuyên gia này cho rằng, đây là trường hợp khá thành công trong tăng NSLĐ theo các bước phát triển doanh nghiệp, nâng cấp qua đào tạo, kết nối/liên doanh/cạnh tranh mở rộng thị trường trong và ngoài nước.
“Nói chung, doanh nghiệp cần phải đào tạo lại, bổ sung lao động. Lan tỏa tốt nhất từ FDI vẫn là kỹ năng lao động và quản trị …”, TS. Võ Trí Thành đưa ra lời khuyên.
Xây dựng Chương trình quốc gia về tăng năng suât lao động
Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Quốc Phương cho rằng, sau hơn 35 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong phát triển kinh tế - xã hội. Ngay cả trong thời kỳ khó khăn do dịch COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng dương.
Theo Thứ trường, quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng theo hướng cải thiện chất lượng tăng trưởng. Cụ thể, tăng trưởng kinh tế đã giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, xuất khẩu thô, lao động nhân công giá rẻ và mở rộng tín dụng, từng bước chuyển sang dựa vào ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đáng chú ý hơn, ở Việt Nam, thành quả tăng trưởng kinh tế đã đi đôi với công bằng thay vì phải đánh đổi công bằng để tăng trưởng nhanh.
Những thành công trong quá khứ đã thúc đẩy Việt Nam hướng tới các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống cao hơn. Việt Nam cũng xác định các trụ cột chính để hiện thực hóa khát vọng vươn cao, trong đó, nhấn mạnh duy trì tăng trưởng cao dựa trên thúc đẩy NSLĐ, nuôi dưỡng nền kinh tế đổi mới sáng tạo, để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế gắn với độc lập, tự chủ.
“Với những yêu cầu đó, tăng NSLĐ là yếu tố quan trọng đối với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn và là điều kiện tiên quyết để giúp Việt Nam thu hẹp trình độ phát triển với các nước trong khu vực, hướng tới mục tiêu là nước phát triển với thu nhập cao vào 2045…”, Thứ trưởng Phương nhấn mạnh.
Với những điểm nghẽn trong thúc đẩy tăng NSLĐ, Thứ trưởng lưu ý về xu hướng NSLĐ của Việt Nam trong mối tương quan với tăng trưởng và với các nước trong khu vực, hiệu quả thực thi chính sách thúc đẩy NSLĐ quốc gia trong giai đoạn vừa qua, những điểm nghẽn đang cản trở tăng NSLĐ cũng như phân tích các nguyên nhân và những sáng kiến nhằm thúc đẩy NSLĐ hướng tới tăng trưởng bền vững trong thời gian tới, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều yếu tố bất định, khó lường.
Tại hội thảo, các diễn giả, nhà quản lý cũng thống nhất và nhận định việc xây dựng Chương trình quốc gia về tăng NSLĐ là một nhiệm vụ quan trọng, vừa có ý nghĩa thời sự nhằm sớm thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, vừa là trọng tâm chiến lược nhằm góp phần cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và giúp Việt Nam “bắt kịp, tiến cùng và vượt lên” các quốc gia trong khu vực.
Theo đó, Chương trình quốc gia về tăng NSLĐ hướng tới mục tiêu coi NSLĐ là động lực, nền tảng cho tăng trưởng nhanh, bền vững; trên cơ sở tận dụng hiệu quả các cơ hội của CMCN4.0, chuyển đổi số và thông qua thúc đẩy liên kết vùng và phát triển vùng; từ đó góp phần gia tăng khả năng cạnh tranh, mức độ độc lập, tự chủ và sức chống chịu của nền kinh tế.
Cụ thể, Chương trình quốc gia về tăng NSLĐ dự kiến đặt ra một số chỉ tiêu như: Tốc độ tăng NSLĐ bình quân từ 6,5 - 7,0%/năm; tốc độ tăng NSLĐ của các vùng kinh tế trọng điểm và 5 thành phố lớn cao hơn trung bình cả nước; nâng cao tỷ trọng đóng góp của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng; phấn đấu nằm trong nhóm hàng đầu của ASEAN về tốc độ tăng NSLĐ vào năm 2030; và Năng lực Đổi mới sáng tạo (của WIPO) thuộc nhóm 40 nước đứng đầu; Chính phủ điện tử (của Liên hợp quốc) thuộc nhóm 60 nước đứng đầu.