Năm 2023, các ngân hàng tại châu Á có thể thu lợi từ lãi suất tăng song rủi ro cũng tăng lên
Nhìn ra thế giới - Ngày đăng : 16:05, 31/12/2022
Việc Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ liên tục tăng lãi suất trong năm nay đã thiết lập xu hướng đối với nhiều ngân hàng trung ương châu Á, ngoại trừ Trung Quốc và Nhật Bản - mặc dù sự thay đổi chính sách gần đây của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản dường như báo hiệu việc thắt chặt cũng sẽ diễn ra. Kết quả là, những tổ chức cho vay ở hai nền kinh tế lớn nhất khu vực không được hưởng mức lợi biên nhuận cho vay cao hơn như ở những nơi khác.
Attila Kincses, luật sư thành viên thuộc công ty tư vấn McKinsey and Co. cho biết: “Có sự khác biệt đáng kể về hoạt động ở cấp quốc gia và cấp ngân hàng trong khu vực. "Trung Quốc có thể bị ảnh hưởng do suy thoái thị trường. Nhật Bản có thể vẫn tăng trưởng chậm lại, vì lãi suất có thể duy trì ở mức thấp hơn trong thời gian dài hơn, làm hạn chế khả năng sinh lời của ngân hàng."
Điều đó cũng khiến các ngân hàng ở 2 quốc gia này đi ngược với xu hướng toàn cầu. Theo đánh giá thường niên về ngân hàng trên toàn cầu của McKinsey mới công bố trong tháng này, trên toàn thế giới, lợi nhuận của các tổ chức cho vay trong năm nay đạt mức cao nhất trong 14 năm qua. Doanh thu đạt 6,5 nghìn tỷ đô la khi lãi suất cao hơn thúc đẩy tỷ suất lợi nhuận ròng (NIM) tăng mạnh.
Một kịch bản có thể xảy ra mà McKinsey đặt ra trong ngắn hạn là vừa có tăng trưởng và có lạm phát, trong đó chi phí sẽ vẫn cao hơn trong năm tới nhưng được các ngân hàng trung ương kiểm soát bằng cách giữ lãi suất tăng cao. Đó sẽ là tin tốt cho những tổ chức cho vay, vì lãi suất tăng sẽ nâng cao khả năng sinh lời trong các lĩnh vực như tài chính tiêu dùng.
Nhưng trong khi hầu hết các ngân hàng trung ương châu Á đang theo sát sự dẫn dắt của Fed – mới đây trong tháng 12 tiếp tục tăng lãi suất thêm 50 điểm cơ bản (0,5%), sau một loạt các lần tăng 75 điểm cơ bản – thì Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (Ngân hàng trung ương của Trung Quốc) đã cắt giảm lãi suất cơ bản ba lần trong những tháng gần đây, phản ánh mối lo ngại của Ngân hàng trung ương nước này đối với sự giảm tốc của nền kinh tế và lĩnh vực bất động sản gặp khó khăn.
Khu vực bất động sản ở nền kinh tế lớn nhất châu Á đã bị ảnh hưởng bởi làn sóng vỡ nợ trái phiếu khi các nhà phát triển bất động sản ngập trong nợ nần, khiến nhiều dự án phát triển bất động sản dân cư chưa hoàn thành. Điều đó đã gây ra làn sóng dừng trả nợ các khoản vay thế chấp của những người mua nhà trên phạm vi toàn quốc, gây ra sự sụp đổ niềm tin vào lĩnh vực này, vốn chiếm khoảng 1/5 tổng sản phẩm quốc nội của Trung Quốc.
Lãi suất cơ bản cho vay 5 năm - thước đo để thiết lập lãi suất cho vay thế chấp - ở mức 4,3%, giảm 35 điểm cơ bản (0,35%) so với đầu năm. Việc cắt giảm lãi suất làm giảm bớt gánh nặng nợ cho các nhà phát triển bất động sản và người mua nhà, giảm rủi ro do các khoản nợ xấu gây ra cho các ngân hàng.
Nhưng điều này cũng làm giảm tỷ suất lợi nhuận ròng, một chỉ số quan trọng về khả năng sinh lời của các tổ chức cho vay. Theo dữ liệu từ cơ quan quản lý tài chính Trung Quốc, đối với các ngân hàng Trung Quốc đại lục, NIM toàn ngành trong 9 tháng đầu năm là 1,94%, giảm 13 điểm cơ bản so với một năm trước.
Ngân hàng Công thương Trung Quốc, ngân hàng cho vay lớn nhất của Trung Quốc tính theo tài sản, có NIM là 1,98%, đã giảm xuống cùng chiều với mức trung bình của ngành.
Dữ liệu mới nhất của S&P Global Market Intelligence cho thấy, các ngân hàng thương mại nhà nước lớn nhất của Trung Quốc đã ghi nhận mức tăng trưởng ở mức thấp một con số trong quý III, trong khi dư nợ cho vay của các ngân hàng thương mại hạng trung giảm. Ngân hàng Minsheng Trung Quốc đã công bố mức giảm so với cùng kỳ năm ngoái là 7,65% trong tổng các khoản cho vay ròng từ tháng 7 đến tháng 9.
Những tổ chức cho vay ở Nhật Bản cảm thấy khó khăn vì một lý do hơi khác. Việc Fed tăng lãi suất đã khiến giá trái phiếu kho bạc Mỹ giảm, dẫn đến khoản lỗ lớn tiềm ẩn đối với việc nắm giữ trái phiếu của các ngân hàng Nhật Bản, những ngân hàng này trong nhiều năm đã tăng các khoản vay và đầu tư trái phiếu ở nước ngoài để bù đắp cho tỷ suất lợi nhuận thấp ở thị trường trong nước.
Từ cuối tháng 3 đến cuối tháng 9, khoản lỗ chưa thực nhận đối với trái phiếu nước ngoài đã tăng hơn gấp đôi lên gần 4 nghìn tỷ yên (29 tỷ USD) tại MUFG, SMFG và Mizuho. Tại 98 ngân hàng cấp khu vực của Nhật Bản, khoản lỗ lên tới 2,3 nghìn tỷ yên, tăng hơn 6 lần.
Giống như đối tác Trung Quốc, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã giữ lãi suất ở mức thấp để tránh làm chệch hướng quá trình phục hồi kinh tế của đất nước, mặc dù trong một động thái bất ngờ mới đây, BOJ đã nâng trần lãi suất chính phủ kỳ hạn 10 năm lên 0,5% từ 0,25%, một chính sách điều chỉnh được thị trường tài chính lý giải thích là tăng lãi suất thực tế.
Ngược lại, khu vực tài chính ở các nền kinh tế nhỏ hơn như Singapore trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á gồm 10 thành viên đang được hưởng lợi từ việc tăng lãi suất.
Các ngân hàng lớn nhất ASEAN tính theo tài sản -- DBS Group Holdings, Oversea-Chinese Banking Corp. và United Overseas Bank, tất cả đều đến từ Singapore hoặc có trụ sở tại đó – đều lấy tín hiệu từ Fed trong việc thiết lập lãi suất cho các khoản vay.
Chuỗi các đợt tăng lãi suất mạnh mẽ của Mỹ đã làm tăng tỷ suất lợi nhuận cho các tổ chức cho vay của Singapore. Ngân hàng lớn nhất trong bộ ba này, DBS, đã báo cáo lợi nhuận ròng tăng 35% trong quý III.
Thu nhập lãi thuần trong quý - doanh thu được tạo ra từ các khoản cho vay trừ đi tiền lãi trả cho người gửi tiền - đã tăng 23% cho DBS so với quý trước, lên 3,02 tỷ đô la Singapore (2,2 tỷ USD).
Tuy nhiên, ở những nơi khác trong ASEAN, lãi suất tăng đi kèm với rủi ro tiềm tàng.
Theo một báo cáo của công ty nghiên cứu tài chính CreditSights vào tháng 10, Thái Lan có mức nợ hộ gia đình cao nhất trong khu vực so với GDP và các ngân hàng Thái Lan thường áp dụng lãi suất cho vay thế chấp thả nổi trong phần lớn các khoản cho vay mua nhà.
Các khoản cho vay thế chấp thả nổi có lãi suất dao động dựa trên môi trường lãi suất xung quanh. Lãi suất cao hơn dẫn đến các khoản thanh toán hàng tháng cao hơn cho người đi vay, điều này đồng nghĩa với việc một tỷ lệ lớn dư nợ sẽ trở nên tồi tệ đối với các tổ chức cho vay.
Theo CreditSights, Ngân hàng Bangkok có 80% khoản vay thế chấp gắn với lãi suất thả nổi, trong khi đó tỷ lệ này tại Ngân hàng TMBThanachart là 90%.
“Thái Lan dường như là một thách thức đặc biệt, với nợ hộ gia đình cao… và triển vọng kinh tế đầy thách thức,” CreditSights cho biết. “Các ngân hàng nhận thức được tác động của việc tăng lãi suất đối với khách hàng và đang tích cực tìm cách xác định những người đi vay có dấu hiệu cảnh báo sớm về khó khăn tài chính.”
Trong khi đó, các tổ chức tài chính ở Hàn Quốc và Ấn Độ có tình hình tương tự như các đồng nghiệp Singapore, tỷ suất lợi nhuận cao hơn nhờ lãi suất cao hơn.
Tại Ấn Độ, theo công ty nghiên cứu CareEdge, NIM của các ngân hàng thương mại trong danh sách lựa chọn của Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (NHTW Ấn Độ) hoặc các ngân hàng do ngân hàng trung ương quản lý đã tăng 22 điểm cơ bản lên 3,1% trong năm trong quý III - mức cao nhất trong một năm,.
Nhưng trong khi các ngân hàng trên khắp châu Á bước vào năm mới với một nền tảng vững chắc hơn, các nhà phân tích cho rằng chi phí tài chính cao hơn hiện đang hỗ trợ họ cũng có thể dẫn đến rắc rối trong tương lai.
Trong một báo cáo tháng 12, CreditSights đã cảnh báo, lãi suất cao hơn và hoạt động kinh doanh chậm lại sẽ dần dần làm suy yếu khả năng trả nợ của người đi vay. Nói tóm lại, các ngân hàng có thể thu được lợi nhuận, nhưng khách hàng của họ có thể bị thiệt hại.
Báo cáo cho biết: “Lãi suất tại Mỹ sẽ duy trì ở mức cao hơn trong thời gian dài hơn – ít nhất là đến năm 2024, dẫn đến việc các ngân hàng trung ương khu vực châu Á - Thái Bình Dương, ngoại trừ Nhật Bản và Trung Quốc, cũng cần phải duy trì ở mức cao hơn trong thời gian dài hơn”. "Các công ty có chất lượng thấp hơn hoặc có đòn bẩy quá cao có thể gặp khó khăn trong việc tái cấp vốn trên thị trường trái phiếu hoặc thị trường cho vay, dẫn đến vỡ nợ."