Kinh tế Việt Nam: Vượt qua thách thức, phục hồi nhanh chóng

Nghiên cứu - Trao đổi - Ngày đăng : 06:30, 21/01/2023

(thitruongtaichinhtiente.vn) - Các báo cáo kinh tế của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã ghi nhận khu vực ASEAN và Việt Nam phục hồi nhanh sau đại dịch COVID-19. Vào thời điểm này, chúng tôi chúc mừng Chính phủ Việt Nam đã đạt được mục tiêu kép - vừa kiểm soát tốt đại dịch COVID-19, vừa duy trì tăng trưởng kinh tế.

Năm 2022 là một năm có nhiều biến động trên thế giới. Kinh tế toàn cầu đang phải đối mặt với lạm phát diễn tiến hết sức phức tạp, chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn do cuộc xung đột Nga-Ukraine kéo dài. Trong bối cảnh đó, kinh tế Việt Nam đã phục hồi nhanh hơn dự kiến trong nửa đầu năm 2022 và nhanh chóng tăng tốc trong những tháng còn lại. Các báo cáo kinh tế của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã ghi nhận khu vực ASEAN và Việt Nam phục hồi nhanh sau đại dịch COVID-19. Vào thời điểm này, chúng tôi chúc mừng Chính phủ Việt Nam đã đạt được mục tiêu kép - vừa kiểm soát tốt đại dịch COVID-19, vừa duy trì tăng trưởng kinh tế.

 

Ông Andrew Jeffries, Giám đốc Quốc gia của ADB tại Việt Nam

Dấu ấn nổi bật của kinh tế Việt Nam năm 2022

Điểm sáng đầu tiên đáng ghi nhận đó là công tác phòng chống dịch bệnh ở Việt Nam rất hiệu quả. Mặc dù đó là công tác thuộc lĩnh vực y tế nhưng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với kinh tế Việt Nam. Nhờ việc kịp thời chuyển từ phòng dịch cứng nhắc sang phòng chống dịch linh hoạt, hiệu quả và tốc độ bao phủ vắc-xin rất nhanh, Việt Nam đã có thể mở cửa toàn bộ nền kinh tế từ tháng 3/2022, tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế trong cả nước nhanh chóng trở lại trạng thái bình thường mới.

Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ ban hành từ đầu năm, bao gồm các giải pháp tài khóa, tiền tệ, an sinh xã hội và phát triển cơ sở hạ tầng, đã tạo đà cho kinh tế phục hồi. Các ngành công nghiệp, thương mại-dịch vụ và nông nghiệp đã tăng trưởng nhanh chóng, tạo ra lực đẩy cho toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, là những điểm sáng khác của nền kinh tế như hoạt động xuất-nhập khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn duy trì tăng trưởng.

Các ngành công nghiệp, thương mại-dịch vụ và nông nghiệp đã tăng trưởng nhanh chóng, tạo ra lực đẩy cho toàn bộ nền kinh tế

Đà tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2022 được duy trì bởi những yếu tố quan trọng như sự ổn định chính trị, nền tảng kinh tế vĩ mô vững mạnh và sự phục hồi nhanh hơn dự kiến của các ngành kinh tế. Trong báo cáo Cập nhật Triển vọng Phát triển châu Á 2022 công bố hồi tháng 9/2022, ADB đã dự báo kinh tế Việt Nam năm 2022 sẽ tăng trưởng ở mức 6,5%. Tuy nhiên, đây là dự báo dựa trên dữ liệu thống kê của các tháng trước đó. Nếu cập nhật dữ liệu thống kê của quý IV và cả năm thì tăng trưởng kinh tế năm 2022 của Việt Nam có thể đạt mức trên 7% - đánh dấu sự phục hồi đầy ấn tượng sau đại dịch.

Những thách thức đã, đang và sẽ đối mặt

Những tác động lan tỏa từ cuộc xung đột Nga-Ukraine làm đứt gãy chuỗi cung ứng lương thực, xăng dầu, gia tăng sức ép lạm phát cùng với những biện pháp thắt chặt tài khóa và tiền tệ ở Mỹ và châu Âu khiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu suy giảm, đe dọa triển vọng ngắn hạn của khu vực. Thêm vào đó, việc Trung Quốc tiếp tục duy trì chính sách ‘Zero COVID-19’ cũng hạn chế dòng chảy thương mại toàn cầu nói chung và giao thương giữa Việt Nam - Trung Quốc nói riêng. Những yếu tố rủi ro từ bên ngoài này đã ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động kinh tế của Việt Nam trong năm 2022 và rất có thể kéo dài sang năm 2023.

Ngoài những rủi ro, thách thức từ bên ngoài, triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam còn phải đối mặt với những thách thức từ những vấn đề nội tại, bao gồm việc chậm giải ngân vốn đầu tư công, thị trường tài chính còn nhiều thách thức và cuối cùng, nhiều bất cập trong thị trường lao động cần tháo gỡ kịp thời.

Mặc dù trong thời gian qua, Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công như biện pháp đòn bẩy, sẽ bù đắp cho xuất khẩu giảm sút do nhu cầu trên thị trường toàn cầu đang yếu đi bởi chính sách thắt chặt tiền tệ, nhưng giải ngân vốn đầu tư công vẫn chậm. Số liệu thống kê cho thấy, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công của cả nước đạt chưa đến 60% số vốn cần phải giải ngân trong năm 2022. Việc giải ngân vốn đầu tư công và các khoản chi xã hội chậm so với kế hoạch, đặc biệt là tiến độ thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ ban hành đầu năm còn chậm, làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm 2022 và 2023.

Bên cạnh việc đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, Việt Nam cũng cần củng cố lại thị trường vốn, đặc biệt cần khơi thông dòng vốn của thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Đây là kênh huy động vốn quan trọng không chỉ đáp ứng nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh, mà còn giảm bớt sự phụ thuộc vào vốn từ kênh tín dụng ngân hàng. Việc sớm chấn chỉnh thị trường trái phiếu, bổ sung hoàn thiện các qui định pháp luật để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về thị trường vốn sẽ đảm bảo nguồn vốn cần thiết cho các doanh nghiệp duy trì và mở rộng sản xuất, kinh doanh trong giai đoạn phục hồi sau đại dịch, đồng thời củng cố niềm tin của nhà đầu tư và thị trường.

Có lẽ không ai muốn nhắc đến đại dịch COVID-19 bởi những hậu quả nghiêm trọng của nó nhưng đại dịch cũng làm lộ ra những vấn đề của thị trường lao động Việt Nam. Vào giai đoạn dịch bùng phát dữ dội nhất trong năm 2021, đã có hàng chục nghìn, thậm chí cả trăm nghìn lao động tìm đường trở về quê. Sự dịch chuyển tự phát này không chỉ tạo ra áp lực rất lớn cho địa phương nơi tiếp nhận trong việc đảm bảo an sinh xã hội và sắp xếp việc làm, mà còn gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc tuyển dụng đủ lao động để duy trì và mở rộng sản xuất, kinh doanh khi nền kinh tế bước vào giai đoạn phục hồi.

Việc chủ động thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, chăm lo cho người lao động ở cả khu vực chính thức và không chính thức có thể xem như một liều ‘vắc-xin’ gia tăng sức chống chịu cho lực lượng lao động, hạn chế được tác động tiêu cực của các cú sốc từ bên ngoài có thể xảy ra trong tương lai.

Nỗ lực của ngành Ngân hàng rất đáng được ghi nhận

Năm 2022 cũng là một năm đầy khó khăn, thách thức đối với thị trường tài chính – ngân hàng Việt Nam. Căng thẳng địa chính trị đang gia tăng làm đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu. Giá lương thực và xăng dầu toàn cầu tăng mạnh khiến lạm phát tăng cao. Các ngân hàng trung ương ở các nền kinh tế tiên tiến phải thắt chặt tài khóa và tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Động thái này có thể gây bất ổn cho tài chính toàn cầu.

Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã liên tiếp nâng lãi suất khiến đồng đô-la Mỹ mạnh lên và các đồng tiền nội địa của các quốc gia khác bị yếu đi, thị trường chứng khoán sụt giảm, phí bảo hiểm rủi ro được nới rộng hơn. Đã có hiện tượng dòng tiền chảy ra khỏi danh mục đầu tư ở nhiều thị trường trái phiếu trong khu vực. Đồng đô-la mạnh lên cũng ảnh hưởng lớn đến nợ công bằng đồng đô-la của nhiều quốc gia.

Vừa thắt chặt tiền tệ để kiểm soát lạm phát, vừa đảm bảo thanh khoản cho nền kinh tế phục vụ mục tiêu tăng trưởng là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN). Những nỗ lực trong việc điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ và tỷ giá của NHNN trong thời gian qua rất đáng được ghi nhận. Chính sách tiền tệ thận trọng và linh hoạt của Việt Nam và việc triển khai có hiệu quả các biện pháp kiểm soát giá hàng hóa và dịch vụ thiết yếu như xăng dầu, điện, thực phẩm, giáo dục và y tế… đã góp phần kiểm soát lạm phát hiệu quả ở dưới mức 4% trong năm 2022.

Nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam đang được kiểm soát tốt. Ước tính nợ công ở mức 43,1% GDP trong năm 2021, thấp hơn nhiều so với mức luật định 60%. Nợ nước ngoài được dự báo là 38,4%, nằm trong giới hạn luật định là 45%. Vị thế tài khóa vững chắc và nợ công thấp đã hỗ trợ mạnh mẽ cho phục hồi kinh tế ở Việt Nam, trong điều kiện lạm phát toàn cầu gia tăng và ngân hàng trung ương của các nước phải tăng lãi suất để đối phó.

Năm 2023: Tiếp tục phục hồi

Bước sang năm 2023, kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ tiếp tục phục hồi. Các cân đối vĩ mô tiếp tục được kiểm soát. Lạm phát được dự báo được kiềm chế ở mức từ 4 - 4,5%. Nợ công của Việt Nam vẫn được kiểm soát tốt. NHNN được kỳ vọng tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ linh hoạt để đảm bảo nguồn tín dụng cho phục hồi và phát triển kinh tế, đồng thời kiểm soát lạm phát một cách chặt chẽ.

Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số trong tất cả các lĩnh vực để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế

Bất chấp những tác động tiêu cực của đại dịch, Việt Nam vẫn được đánh giá là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế số nhanh nhất trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số trong tất cả các lĩnh vực để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Ngay cả trước và trong thời gian đại dịch bùng phát, chuyển đổi số vẫn được triển khai mạnh mẽ trong hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng cường năng lực cạnh tranh và gia tăng khả năng tiếp cận thị trường quốc tế. Tuy nhiên, còn rất nhiều việc phải làm để xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm khai thác tối đa lợi ích của công nghệ số trong hoạt động ngân hàng trong thời gian tới.

Điểm cuối cùng trước khi khép lại bài viết này là sự thay đổi trong xu hướng tiêu dùng và thương mại toàn cầu nhằm bảo vệ môi trường và chống biến đổi khí hậu. Trong tương lai gần, các thị trường của các nền kinh tế phát triển sẽ đưa ra các tiêu chí "xanh" hay "phát thải các-bon thấp" đối với nhiều loại hàng tiêu dùng và nhập khẩu. Xu hướng này là một thách thức mới trong hội nhập kinh tế toàn cầu, nhưng đồng thời cũng là cơ hội cho nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, trong việc chuyển đổi sang kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.

Trên thế giới cũng như trong khu vực đã có nhiều nền tảng hợp tác cũng như hỗ trợ tài chính và công nghệ cho chuyển đổi năng lượng sạch và phát triển bền vững. Trong khu vực Đông Nam Á, Indonesia là một ví dụ điển hình cho mô hình hợp tác chuyển đổi năng lượng sạch. Nắm bắt được cơ hội hợp tác này, Việt Nam sẽ có thêm nguồn lực tài chính để chuyển đổi năng lượng và phát triển một nền kinh tế phát thải các-bon thấp, góp phần hiện thực hóa cam kết của Việt Nam "phát thải ròng bằng 0" vào năm 2050.

Phương Nguyễn (ghi)