Luật các TCTD (sửa đổi): Tránh khoảng trống pháp lý trong quá trình luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu
Với những kết quả đã đạt được thông qua Nghị quyết 42/2017/QH14, sự cần thiết của việc luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là không phải bàn cãi. Tuy nhiên, bên cạnh kế thừa Nghị quyết 42, vẫn cần rà soát kỹ trong quá trình soạn thảo Luật Các TCTD (sửa đổi) để tránh có những khoảng trống pháp lý.
Sự cần thiết của việc luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu
Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) có hiệu lực ngày 15/08/2017 và được thực hiện trong thời hạn 5 năm từ ngày có hiệu lực thi hành.
Từ khi có hiệu lực, các biện pháp, chính sách tại Nghị quyết 42 đã góp phần tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy sự phối hợp giữa các cá nhân, tổ chức, các cơ quan hữu quan với TCTD trong công tác xử lý nợ xấu, góp phần thúc đẩy việc xử lý nợ xấu được thực hiện một cách nhanh chóng, hiệu quả.
Ngân hàng Nhà nước cho biết, lũy kế từ ngày 15/8/2017 đến ngày 31/12/2021, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 380,2 nghìn tỷ đồng, bằng 47,9% số nợ xấu. Tính trung bình nợ xấu đã xử lý đạt khoảng 5,67 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn khoảng 2,15 nghìn tỷ đồng/tháng so với kết quả xử lý nợ xấu trung bình tại thời điểm trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (trung bình từ năm 2012 – 2017, hệ thống các TCTD xử lý được khoảng 3,52 nghìn tỷ đồng/tháng).
“Với kết quả đạt được trong hoạt động xử lý nợ xấu của các TCTD theo quy định tại Nghị quyết 42 như trên, việc luật hóa các quy định của Nghị quyết 42 thành luật chuyên ngành về xử lý nợ xấu của TCTD hoặc quy định thành một chương về xử lý nợ xấu trong Luật Các TCTD là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo an toàn của hệ thống TCTD”, một đại diện Ngân hàng Techcombank nhấn mạnh.
Ngày 16/6/2022, tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV đã ban hành Nghị quyết 63/2022/QH15 kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42, Quốc hội thống nhất kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42 đến hết ngày 31/12/2023, giao Chính phủ nghiên cứu, đề xuất luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu cùng với việc rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Các TCTD.
Ngày 28/2/2023, Ngân hàng Nhà nước thực hiện lấy ý kiến đối với dự thảo Luật Các TCTD (sửa đổi), bao gồm nội dung về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.
Dưới góc độ cơ quan quản lý, ông Nguyễn Hồng Hải, Phó Cục trưởng Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm - Bộ Tư pháp, lưu ý, việc pháp điển hóa Nghị quyết 42 vào trong Luật Các TCTD sẽ làm mất đi đặc quyền ưu tiên áp dụng quy định tại Điều 17 Nghị quyết 42.
“Việc áp dụng quy định tại Luật Các TCTD sẽ thực hiện theo nguyên tắc áp dụng pháp luật tại Luật Ban hành văn bản pháp luật và Điều 4 của Bộ luật Dân sự. Do đó, cần rà soát kỹ để tránh có những khoảng trống pháp lý trong xử lý các vấn đề thuộc hoạt động ngân hàng nói chung, xử lý nợ xấu nói riêng”, ông Nguyễn Hồng Hải cho biết.
Quy định liên quan đến mua, bán nợ xấu
Dự thảo Luật kế thừa các quy định tại Nghị quyết số 42 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD và sửa đổi, bổ sung một số nội dung, cụ thể:
Dự thảo kế thừa các quy định: Bán nợ xấu và tài sản bảo đảm; Mua, bán khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai; Kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án.
Sửa đổi, bổ sung quy định về nợ xấu; mua, bán nợ xấu của tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu; quyền thu giữ tài sản bảo đảm; hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự; thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm; chuyển nhượng tài sản bảo đảm.
Bên cạnh những quy định được kế thừa và sửa đổi, bổ sung, dự thảo không còn một số quy định của Nghị quyết 42.
Thứ nhất, quy định về thủ tục rút gọn. Trên thực tế, trong 5 năm thực hiện Nghị quyết 42, chưa có vụ án nào được áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định tại Nghị quyết 42 do bên có nghĩa vụ trả nợ/chủ tài sản/bên bảo đảm không hợp tác, chống đối, rất dễ dẫn đến trường hợp cố tình tạo ra các tình tiết mới làm cho vụ án không còn bảo đảm điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (Khoản 3 Điều 317, Khoản 4 Điều 323).
Do đó, cần phải có quy định theo hướng Tòa án chỉ chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường trong trường hợp vụ án không còn đảm bảo các điều kiện theo quy định tại Khoản 1, vì vậy quy định về thủ tục rút gọn không được tiếp tục quy định tại Nghị quyết 42.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Công ty Quản lý tài sản (VAMC), việc không có vụ án nào được áp dụng thủ tục rút gọn trên thực tế tại Nghị quyết 42 đòi hỏi cần phải sửa đổi quy định này tại Dự thảo Luật sao cho các tổ chức, cá nhân có thể áp dụng được trên thực tế. Việc bãi bỏ quy định này không đảm bảo giải quyết được những khó khăn, vướng mắc trên thực tế đã được các TCTD đề cập khi xây dựng và trong suốt quá trình thực hiện Nghị quyết 42, đó là tranh chấp hợp đồng tín dụng thường gắn với yêu cầu về quyền xử lý tài sản bảo đảm.
Trong khi đó, các tranh chấp của các khoản nợ xấu tại các TCTD hầu hết là các tranh chấp về hợp đồng tín dụng. Việc không quy định thủ tục rút gọn đối với các tranh chấp về hợp đồng tín dụng gây rất nhiều khó khăn, hạn chế cho các TCTD trong việc xử lý nợ xấu. Do đó, cần thiết cho phép áp dụng thủ tục rút gọn đối với các tranh chấp về hợp đồng tín dụng của khoản nợ xấu, giúp đẩy nhanh tiến độ thu hồi nợ xấu của TCTD.”
Thứ hai, quy định về xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản. Khi VAMC mua khoản nợ từ TCTD có tài sản bảo đảm là dự án bất động sản, tuy nhiên, khi xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản, việc dự án phải đáp ứng đầy đủ điều kiện để chuyển nhượng theo quy định tại Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở, Luật xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đất đai là không khả thi, vì về cơ bản, rất nhiều khoản nợ có tài sản bảo đảm là dự án bất động sản hoặc tài sản hình thành trong tương lai là các dự án bất động sản chưa hoàn thành “công trình hạ tầng kỹ thuật tương ứng theo tiến độ ghi trong dự án đã được phê duyệt” hoặc chủ đầu tư chưa có đầy đủ “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ hoặc phần dự án chuyển nhượng”.
“Vì vậy để TCTD/VAMC có cơ sở pháp lý xử lý được tài sản bảo đảm là dự án bất động sản qua đó góp phần tăng cường hiệu quả công tác xử lý nợ xấu, việc quy định về điều kiện dự án bất động sản được TCTD/VAMC chuyển nhượng cần đáp ứng những điều kiện tại Điều 10, Nghị quyết 42 và tiếp tục luật hoá nội dung này tại dự thảo là cần thiết”, VAMC nhấn mạnh.
Xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu
Trong hoạt động cấp tín dụng của các TCTD, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm giữ vai trò đặc biệt quan trọng nhằm bảo đảm khả năng thu hồi vốn của TCTD. Do vậy, cần thiết phải có một hành lang pháp lý rõ ràng và minh bạch để bảo vệ bên cho vay/bên nhận bảo đảm trong các trường hợp bên vay không có khả năng trả nợ hoặc chây ì không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho các TCTD.
Góp ý về vấn đề xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu trong dự thảo Luật các TCTD, đại diện Techcombank cho biết, ngoài việc kế thừa các quy định về trình tự, thủ tục thu giữ tài sản bảo đảm tại Nghị quyết 42, Luật về xử lý nợ xấu cần phải quy định rõ trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp và cơ quan công an trong việc hỗ trợ, tạo điều kiện cho TCTD trong việc thu giữ tài sản bảo đảm.
Với nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo đảm khi xử lý tài sản bảo đảm, Luật về xử lý nợ xấu cần quy định rõ: Số tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, sau khi trừ chi phí bảo quản, thu giữ và chi phí xử lý tài sản bảo đảm được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho TCTD trước khi thanh toán các nghĩa vụ khác của bên bảo đảm (bao gồm cả các nghĩa vụ thuế, án phí, nghĩa vụ khác không có bảo đảm của bên bảo đảm).
Về chuyển nhượng tài sản bảo đảm, bên cạnh kế thừa quy định tại Nghị quyết 42, với nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo đảm, bên nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm, Luật xử lý nợ xấu của các TCTD cần phải quy định: cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản không được yêu cầu bên nhận bảo đảm, bên nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm nộp thuế thay cho bên bảo đảm khi thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản cho bên mua, bên nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của TCTD.
Về áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại Tòa án, trên thực tế, giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng của TCTD trong thời gian vừa qua khi Tòa án tiếp nhận hồ sơ đều đánh giá chưa đủ điều kiện thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn với nhiều lý do khác nhau.
Một số hồ sơ có thể đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 317 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, tuy nhiên qua trao đổi Thẩm phán có quan điểm là nếu đủ điều kiện theo Điều 317 thì nên thuyết phục khách hàng hòa giải. Trường hợp không hòa giải thì vẫn xét xử theo thủ tục bình thường, nếu xét xử theo thủ tục rút gọn sẽ vi phạm tố tụng về mặt thời hạn xét xử, thủ tục tống đạt, hơn nữa vẫn chưa có nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể về thủ tục trên việc áp dụng thủ tục rút gọn. Do vậy, luật chuyên ngành về xử lý nợ xấu của các TCTD cần có quy định hướng dẫn chi tiết để tòa án nhân dân các cấp áp dụng thủ tục rút gọn khi vụ việc có đủ điều kiện.
Về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong các vụ án hình sự, Nghị quyết 42 mới chỉ quy định nội dung hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo đề nghị của bên nhận bảo đảm là TCTD. Tuy nhiên, trên thực tế khi áp dụng điều khoản này vẫn còn có các vướng mắc, bất cập do có sự xung đột với quy định của pháp luật về tố tụng và chưa có sự hướng dẫn cụ thể của các cơ quan tố tụng.
Ngoài ra quy định nêu trên cũng chưa bao hàm các trường hợp tài sản thế chấp tại các TCTD là tang vât, phương tiện trong các vụ việc vi phạm hành chính và bị xử lý theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phành chính.
“Việc thiếu sót các quy định nêu trên tiềm ẩn rủi ro cho các TCTD bị mất tài sản bảo đảm dẫn đến không có khả năng thu hồi khoản nợ. Do vậy, luật về xử lý nợ xấu cần bổ sung quy định về trách nhiệm hoàn trả tài sản bảo đảm là tang vật, vật chứng trong các vụ án hình sự, vụ án hành chính cho bên bảo đảm là các TCTD và sửa đổi các điều khoản có liên quan của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật xử phạt vi phạm hành chính để đảm bảo khả năng thực thi của của quy định này trên thực tế”, đại diện Techcombank đề xuất.
Ông Nguyễn Hồng Hải cho rằng, thuật ngữ “hoạt động ngân hàng” và “cho vay” tại khoản 12 và khoản 16 Điều 4 dự thảo Luật còn chưa bao quát được dạng thức cấp tín dụng bao gồm cấp tín dụng có áp dụng biện pháp bảo đảm và cấp tín dụng không áp dụng biện pháp bảo đảm. Việc giải thích “cho vay” bó hẹp “trong một thời hạn nhất định” và “với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi” là chưa bao quát và đang tạo rào cản pháp lý đối với nghĩa vụ trong tương lai và việc thanh toán nợ thông qua việc xử lý tài sản bảo đảm.
Ngoài ra, thu giữ tài sản bảo đảm là một quyền pháp lý không phải là một hành vi pháp lý, do đó, dự thảo Luật cần có cơ chế pháp lý linh hoạt cho TCTD thực hiện quyền thu giữ vừa đảm bảo tính kịp thời, an toàn, chi phí thấp vừa phù hợp với tính chất pháp lý của từng loại tài sản bảo đảm và cũng để đảm bảo được tính ổn định của các giao dịch trên thị trường có liên quan đến tài sản bảo đảm.
“Để giữ ổn định thị trường, không làm ảnh hưởng đến các lợi ích hợp pháp, chính đáng của các nhà đầu tư khác, việc thu giữ tài sản bảo đảm là vốn góp, cổ phần, chứng khoán tại các công ty đại chúng nên áp dụng thu giữ theo phương thức bên nhận bảo đảm được chuyển giao, thế quyền không phụ thuộc vào ý chí của bên bảo đảm về các quyền pháp lý mà bên bảo đảm được xác lập đối với tài sản bảo đảm”, ông Nguyễn Hồng Hải đề nghị.