Nâng cao chất lượng hoạt động thực hiện xây dựng pháp luật của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đáp ứng yêu cầu đặt ra hiện nay
Hội thảo khoa học cấp quốc gia với chủ đề: “Thực thi Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 và những vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay” vừa được Học viện Ngân hàng tổ chức ngày 7/4/2023.
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được Quốc hội ban hành năm 2010, có hiệu lực từ ngày 1/1/2011 đã xác lập vị trí pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là ngân hàng trung ương của Việt Nam, hoạt động theo mô hình ngân hàng trung ương trực thuộc Chính phủ.
Phát biểu tại hội thảo, TS. Bùi Hữu Toàn, Chủ tịch Hội đồng Học viện Ngân hàng đánh giá, sau hơn 10 năm thi hành Luật Ngân hàng Nhà nước, việc tổng kết, đánh giá nhằm làm rõ kết quả đạt được cũng như những tồn tại hạn chế phát sinh trong tổ chức thực thi Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh tái cơ cấu nền kinh tế và thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là rất cần thiết, từ đó giúp tạo lập cơ sở khoa học cho việc sửa đổi, bổ sung Luật Ngân hàng Nhà nước phù hợp với giai đoạn hiện nay.
Vị trí pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Sự ra đời của ngân hàng trung ương trong lịch sử gắn liền với quá trình phát triển lâu dài của nghề kinh doanh tiền tệ và yêu cầu quản lý nhà nước đối với các hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng ở các quốc gia. Tùy thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị và hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước mà lịch sử ra đời của ngân hàng trung ương ở các nước cũng khác nhau.
Tại hội thảo, TS. Nguyễn Văn Phương, Trưởng phòng Pháp chế, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) cho biết, trên thế giới, mô hình tổ chức của ngân hàng trung ương gắn liền với đặc điểm riêng của mỗi quốc gia như: thể chế chính trị, quan điểm phát triển kinh tế và đặc điểm văn hóa.... Dựa trên đặc thù riêng, mô hình tổ chức ngân hàng trung ương của mỗi quốc gia (kể cả cùng hệ thống chính trị) cũng có thể khác nhau. Hiện nay, có hai mô hình ngân hàng trung ương đang áp dụng tại các quốc gia trên thế giới, bao gồm: ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ và ngân hàng trung ương độc lập chính phủ.
Ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, vị trí pháp lý của Ngân hàng Nhà nước được xác định ngày càng cụ thể.
Để xác định rõ hơn địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước trong bộ máy của Chính phủ, Điều 2 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định Ngân hàng Nhà nước là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Với vị trí pháp lý là cơ quan ngang bộ của Chính phủ: theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Chính phủ, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước là cơ quan ngang bộ có chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối.
Với vị trí pháp lý của ngân hàng trung ương, Ngân hàng Nhà nước là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Hoạt động vì lợi ích chung của quốc gia là một trong các dấu hiệu thể hiện tính công quyền của ngân hàng trung ương.
“Vị trí đặc thù của Ngân hàng Nhà nước trong nền kinh tế thị trường được quyết định bởi mục đích, tính chất, yêu cầu quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng. Cách quản lý đặc thù của Ngân hàng Nhà nước: quản lý không chỉ bằng pháp luật mà còn được sử dụng các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia thông qua các nghiệp vụ có tính chất sinh lời như tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở.... Tuy nhiên, hoạt động sinh lời này của Ngân hàng Nhà nước chỉ là phương tiện để thực hiện mục tiêu hoạt động vì lợi ích quốc gia và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tiền tệ và ngân hàng”, TS. Nguyễn Văn Phương cho biết.
Nhìn rộng ra quốc tế, TS. Nguyễn Văn Phương cho biết, ở một số nước thực hiện mô hình ngân hàng trung ương độc lập với chính phủ, ngân hàng trung ương không nằm trong cơ cấu tố chức bộ máy của chính phủ, không chịu sự lãnh đạo, điều hành của chính phủ. Trong số các nước thực hiện mô hình này thì Mỹ là nước thực hiện triệt để mô hình ngân hàng trung ương hay Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) độc lập với chính phủ do Tổng thống đứng đầu.
“Ở Việt Nam, như đã nêu ở trên, do có sự khác biệt về thể chế chính trị, bản chất của nhà nước và điều kiện, đặc điểm thực tế nên mô hình Ngân hàng Nhà nước vừa là cơ quan ngang bộ trực thuộc Chính phủ, vừa là ngân hàng trung ương. Qua hơn 70 hoạt động, Ngân hàng Nhà nước đã khẳng định được vị thế, vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong quá trình phối hợp thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ và hỗ trợ phát triển kinh tế”, TS. Nguyễn Văn Phương khẳng định.
Nhận diện chức năng xây dựng pháp luật của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay
Khi nói đến chức năng và thực hiện chức năng của một thiết chế nhà nước, cơ quan nhà nước cần được xem xét và đặt trong tổng thể của việc thực hiện chức năng của nhà nước và vị trí pháp lý, vai trò, chức năng, nhiệm vụ trong từng giai đoạn phát triển cụ thể nhất định.
PGS.TS. Trần Đình Hảo - Nguyên Phó Giám đốc Học viện Khoa học xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Trường Đại học Nguyễn Tất Thành nêu rõ, trên phương diện thực hiện chức năng xây dựng pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; tuyên truyền, phổ biến và kiểm tra theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng. Điều này được coi là tiền đề lý luận cho việc xác định, xem xét và đánh giá về việc thực hiện chức năng xây dựng pháp luật của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay.
Theo PGS.TS. Trần Đình Hảo, những luận điểm chính làm tiền đề lý luận cần thiết cho việc xem xét, đánh giá thực trạng thực hiện chức năng xây dựng pháp luật của Ngân hàng Nhà nước ở đây gồm:
Thứ nhất, việc thực hiện chức năng xây dựng pháp luật của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần được xem xét và đặt trong tổng thể của việc thực hiện chức năng của nhà nước cũng như vị trí pháp lý, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Thứ hai, một trong những nhiệm vụ quyền hạn theo luật định được giao cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trên phương diện hoạt động xây dựng pháp luật (được hiểu theo nghĩa rộng) là ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.
Thứ ba, khâu khởi đầu của xây dựng pháp luật là việc xem xét, đánh giá, xác định nhu cầu, sự cần thiết của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ xã hội, kiến nghị, đề xuất chương trình xây dựng pháp luật trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn đời sống xã hội để nhận diện và xác định những vấn đề đặt ra cần được giải quyết ở phương diện chính sách, các quan hệ xã hội, cụ thể ở đây là trên lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.
Thứ tư, khi xem xét, đánh giá về việc thực hiện chức năng xây dựng pháp luật của Ngân hàng Nhà nước cần đặt trong cách tiếp cận tổng thể những tư duy, nhận thức mới trong khoa học pháp lý và khoa học chính sách công về mối quan hệ giữa chính sách và pháp luật.
Thứ năm, việc thực hiện chức năng xây dựng pháp luật của Ngân hàng Nhà nước ở Việt Nam hiện nay cũng cần được xem xét, đánh giá đặt trong tổng thể điều kiện hội nhập quốc tế.
Kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thực hiện xây dựng pháp luật của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Từ những phân tích về chức năng xây dựng pháp luật của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, PGS.TS. Trần Đình Hảo đã đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thực hiện xây dựng pháp luật của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đáp ứng các yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Thứ nhất, cần có những tổng kết đánh giá chuyên sâu về mức độ đầy đủ và kịp thời của việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng, nguyên nhân đích thực của việc chậm, muộn ban hành, nợ đọng ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết hướng dẫn thi hành luật…
Thứ hai, cần đẩy mạnh và tiến hành định kỳ thường xuyên công tác rà soát văn bản pháp luật, tổng kết đánh giá tình hình thực thi pháp luật nói chung và trên lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng nói riêng để khắc phục kịp thời những “lỗ hổng”, “khoảng trống”.
Thứ ba, chất lượng xây dựng pháp luật xét cho cùng được thể hiện qua chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật được ban hành và hiện thực trong đời sống xã hội.
Thứ tư, trong việc thực hiện chức năng xây dựng pháp luật của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cũng cần phát huy tính chủ động và tính trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước và đây cũng cần được coi là một trong những tiêu chí đánh giá về việc thực hiện chức năng xây dựng pháp luật của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Trong khi đó, dựa trên cơ sở phân tích các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn triển khai thực hiện các quy định, TS. Nguyễn Văn Phương đưa ra một số đề xuất như sau: Thực hiện đồng bộ các chính sách vĩ mô để đạt hiệu quả cao việc kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy phát triển kinh tế; Nâng cao hiệu quả công tác dự báo và xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật kịp thời, phù hợp với thực tế; Nâng cao hiệu quả công tác giám sát từ xa và thanh tra, kiểm toán để kiểm soát hoạt động của các tổ chức tín dụng bảo đảm tuân thủ quy định của pháp luật và an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng.
Bên cạnh đó, rà soát, hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi để nâng cao hiệu quả hoạt động của bảo hiểm tiền gửi, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người tiền gửi và góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn và lành mạnh của hoạt động ngân hàng; Tập trung, ưu tiên triển khai thực hiện Kế hoạch chuyển đổi số ngành ngân hàng đã được phê duyệt tại Quyết định số 810/QĐ-NHNN 11/5/2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước theo đúng lộ trình đề ra; Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện chính sách, pháp luật về cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu.
TS. Viên Thế Giang, Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh chỉ ra một số vấn đề cần quan tâm khi sửa đổi Luật Ngân hàng Nhà nước trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cụ thể:
Một là, tư cách ngân hàng trung ương của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần được thể hiện đậm nét hơn.
Hai là, phân định rõ ràng thẩm quyền của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng, ngoại hối.
Ba là, tăng thẩm quyền cho Ngân hàng Nhà nước trong giữ ổn định hệ thống tài chính và xử lý ngân hàng thương mại yếu kém.