Thúc đẩy thực hành ESG trong ngành Dịch vụ Tài chính tại Việt Nam
Ngày 23/5, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) phối hợp với PwC Việt Nam tổ chức hội thảo “Thúc đẩy thực hành ESG trong ngành Dịch vụ tài chính tại Việt Nam” nhằm trao đổi về thực trạng xây dựng, phát triển và thực hành ESG tại Việt Nam nói chung, khu vực ngân hàng - tài chính nói riêng.
Thực trạng xây dựng và thực hành ESG tại Việt Nam
Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Nguyễn Thanh Sơn, Giám đốc Trung tâm Đào tạo VNBA cho biết, môi trường - xã hội - quản trị (ESG) đang là vấn đề rất thời sự đối với tất cả các ngành, lĩnh vực ở Việt Nam nói chung, ngành tài chính ngân hàng nói riêng. Đây là xu thế chung trên thế giới cũng như tại Việt Nam, vì có đóng góp lớn cho mục tiêu phát triển bền vững, góp phần giảm thiểu rủi ro, tác hại biến đổi khí hậu, góp phần tăng trưởng bền vững, cũng như xóa đói giảm nghèo.
Theo đánh giá của Bloomberg Intelligence, dự kiến tài sản ESG toàn cầu đến năm 2025 đạt khoảng 50.000 tỉ USD. Ở Việt Nam, ESG đang là xu thế và là một trong những yếu tố để đưa vào phân tích, đầu tư. Nếu các ngân hàng, doanh nghiệp Việt Nam xây dựng, phát triển và thực hành ESG sẽ là điểm cộng lớn để thu hút dòng vốn đầu tư từ các tổ chức quốc tế. Đây cũng là lý do mà các ngân hàng, doanh nghiệp Việt Nam rất quan tâm và đầu tư để thiết lập hệ thống khung ESG cũng như thực hành ESG trong tổ chức của mình.
Liên quan đến vấn đề thể chế và pháp lý, ông Nguyễn Thanh Sơn cho biết, Việt Nam có Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Đối với ngành Ngân hàng, mới nhất là Thông tư 17 thực hiện quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng. Trước đó, năm 2015, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã có Chỉ thỉ số 03 về thúc đẩy tăng trưởng xanh và quản trị rủi ro môi trường xã hội trong hoạt động cấp tín dụng.
NHNN cũng phối hợp với Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) ban hành Sổ tay hướng dẫn thực hiện đánh giá rủi ro môi trường, xã hội đối với 15 ngành nghề có rủi ro cao nhất về môi trường, xã hội. Đây là tiền đề để tích hợp ESG vào trong hoạt động kinh doanh cụ thể của các TCTD.
Dẫu vậy, đại diện VNBA cho rằng, Việt Nam vẫn đang ở những bước sơ khởi và các TCTD còn gặp nhiều khó khăn trong công tác triển khai, áp dụng đánh giá, thẩm định những tác động môi trường và các rủi ro liên quan đến danh mục đầu tư.
Cũng tại hội thảo, bà Đinh Hồng Hạnh, Phó Tổng giám đốc, Lãnh đạo dịch vụ Tài chính, Bộ phận tư vấn ESG, Công ty Tư vấn PwC Đông Nam Á thông tin: Kết quả Khảo sát “Mức độ sẵn sàng thực hành ESG của ngành dịch vụ tài chính” mới được PwC công bố đã ghi nhận, hai bộ phận đứng đầu được phân công đảm trách ESG là: Tuân thủ và Quản lý rủi ro (46%); Chiến lược doanh nghiệp (27%). Điều này cho thấy, các doanh nghiệp trong ngành đang xem ESG là một hoạt động tuân thủ. Trong đó, chỉ gần 1/3 tổ chức - một con số khá khiêm tốn - đặt ESG làm trọng tâm trong chiến lược kinh doanh và từ đó phát triển tư duy tích cực chủ động về ESG.
Khảo sát của PwC cũng chỉ ra những tín hiệu tích cực, đó là: Nhiều tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam được thêm vào rổ Chỉ số phát triển bền vững (VNSI) và Top 20 chứng khoán/cổ phiếu niêm yết trên thị trường HOSE. Trong đó, sự tham gia của ngành Dịch vụ tài chính đang chiếm 40% trong số 20 cổ phiếu này. Đây là mức tăng trưởng đáng kể so với mức 25% vào năm ngoái. Hiện nay, Việt Nam đã có 5 ngân hàng và 3 công ty chứng khoán, bảo hiểm được công nhận về những tiêu chuẩn phát triển bền vững.
“Dù có thể là thách thức lớn nhưng quá trình tích hợp ESG vào hoạt động của tổ chức tài chính sẽ mang đến cơ hội vàng để đổi mới và tạo ra sự khác biệt”, bà Đinh Hồng Hạnh nhận định.
Khó khăn, thách thức
Thông tin tại hội thảo cho biết, phần lớn các tổ chức tài chính đã và đang xây dựng các chỉ số rủi ro ESG, tuy nhiên, việc nhận diện và giảm thiểu rủi ro ESG vẫn còn khá mới.
Theo khảo sát của PwC, mặc dù các cơ quan quản lý đã thúc đẩy các quy định mới về ESG nhưng việc đưa các yếu tố ESG vào khung rủi ro vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đó là: Khó khăn trong tích hợp các yếu tố ESG vào khung rủi ro hiện hữu của doanh nghiệp (73%); Chất lượng công bố thông tin và nhận thức của đối tác về các yếu tố ESG còn thấp (61%); chưa có các quy định chính thức và rõ ràng (53%).
Bên cạnh đó, việc mất kết nối giữa đánh giá dữ liệu và báo cáo thực tế cũng gây khó khăn trong công tác đánh giá dữ liệu ESG và công bố thông tin. Các tổ chức tài chính tại Việt Nam cũng đang tụt lại một chút so với mức trung bình của quốc gia khi chỉ có 40% các công ty được liệt kê trong Chỉ số Phát triển bền vững Việt Nam (VNSI) là các tổ chức tài chính.
Do vậy, các tổ chức tài chính cần phải hành động nhiều hơn để ESG trở thành đề tài chiến lược, phục vụ cho những mục tiêu lớn về mặt chiến lược của tổ chức. PwC cho rằng, ngành dịch vụ tài chính Việt Nam cần liên tục nâng cao kiến thức và kỹ năng triển khai ESG trong toàn tổ chức, đặc biệt là ở cấp Hội đồng Quản trị.
Để triển khai ESG hiệu quả
Trình bày về thị trường tài chính bền vững và tài chính xanh, ông Abhinav Mirsha, Giám đốc Dịch vụ Tư vấn Quản lý rủi ro, phụ trách dịch vụ tư vấn ESG, Công ty Tư vấn PwC Đông Nam Á cho rằng, Việt Nam cần chú trọng thúc đẩy thị trường tài chính bền vững, tài chính xanh, trái phiếu xanh nhằm cung cấp cơ hội tài trợ cho các dự án về ESG, đồng thời vẫn đảm bảo khẩu vị rủi ro cho các ngân hàng.
Chuyên gia PwC cho biết, Việt Nam hiện đứng thứ 2 về phát hành trái phiếu xanh tại ASEAN với 1,5 tỷ USD năm 2021, cao gấp 5 lần so với mức 0,3 tỷ USD năm 2020. Ước tính cơ hội đầu tư về khí hậu tại Việt Nam có thể lên đến 753 tỷ USD trong giai đoạn 2016 - 2030. Điều này cho thấy, Việt Nam là thị trường tiềm năng cho ngành dịch vụ tài chính liên quan đến vấn đề ESG.
Trái phiếu xanh mở ra cơ hội khai thác nguồn cung vốn chuyên dụng và ngày càng tăng, đồng thời đa dạng hóa và mở rộng cơ sở nhà đầu tư của tổ chức phát hành. Sau khi phát hành trái phiếu xanh, tương tác từ các nhà đầu tư của các tổ chức phát hành thường tăng lên; qua đó củng cố uy tín, khẳng định các cam kết bền vững cũng như chiến lược phát triển bền vững của tổ chức đó. Những nguồn thu nhập phát sinh từ trái phiếu xanh sẽ được hưởng các ưu đãi về thuế, khiến cho trái phiếu xanh có mức lãi suất thấp hơn các trái phiếu thông thường.
Trái phiếu xanh là trái phiếu được phát hành theo quy định của pháp luật về trái phiếu để huy động vốn cho hoạt động bảo vệ môi trường, dự án đầu tư mang lại lợi ích về môi trường.
Để hỗ trợ quá trình phát hành trái phiếu xanh, các ngân hàng, tổ chức tài chính cần xây dựng năng lực và đào tạo, sáng kiến để truyền thông tới các doanh nghiệp và nhà thầu dự án về trái phiếu xanh; xây dựng các chiến dịch tiếp thị quảng bá trái phiếu xanh; Các chương trình và khuyến khích tài chính cho việc áp dụng trái phiếu xanh sớm hơn; nâng cao công tác quản lý, quy trình và hệ thống để quản lý dữ liệu ESG của khách hàng; quản trị và tuân thủ các phương án điều chỉnh, bao gồm việc thoát vốn cho những dự án không thực hiện theo các tiêu chí đã thỏa thuận...
Khoản vay liên kết bền vững là các khoản vay mà một phần lãi suất có liên quan đến khả năng đáp ứng các mục tiêu bền vững của Bên đi vay.
Theo ông Nguyễn Đình Trung, Trưởng phòng Cấp cao dịch vụ tư
vấn Quản lý rủi ro, phụ trách dịch vụ Tư vấn ESG tại Việt Nam,
Công ty Tư vấn PwC Đông Nam Á, các khoản vay liên kết bền vững (SLL) sẽ mang lại lợi ích lớn cho cả bên cho vay lẫn bên đi vay. Đối với bên cho vay, SLL là kênh huy động vốn hiệu quả cho các dự án có lợi ích về môi trường, xã hội, và quản trị; củng cố uy tín của tổ chức và khẳng định các cam kết bền vững của tổ chức đó. Còn đối với bên đi vay, SLL góp phần tăng cường và cải thiện quản lý bền vững; tăng cường các cơ hội vay vốn cho những người cho vay mới và có thể đạt được sự chấp nhận của công chúng thông qua việc thúc đẩy các hoạt động kinh tế bền vững.
Để hoạt động hiệu quả, SLL yêu cầu các ngân hàng thiết lập một số chỉ số bền vững đề đưa vào điều kiện của khoản vay và sau đó theo dõi liên tục. Đồng thời, KPI ESG và định giá khoản vay cần được hiệu chỉnh phù hợp để khuyến khích cải thiện ESG.