Việt Nam thích ứng với thuế tối thiểu toàn cầu như thế nào?
Thuế tối thiểu toàn cầu hiện đang thu hút sự chú ý đặc biệt của toàn xã hội bởi liên quan đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài của một quốc gia. Vụ trưởng Vụ Chính sách (Tổng cục Thuế) Lưu Đức Huy đã có cuộc trao đổi với báo chí để làm rõ hơn việc Việt Nam thích ứng với thuế tối thiểu toàn cầu.
Phóng viên: Thưa ông, việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu đang được thực hiện như thế nào tại khối các nước chủ yếu có vốn đầu tư ra nước ngoài và khối các nước chủ yếu tiếp nhận vốn đầu tư từ nước ngoài?
Ông Lưu Đức Huy: Như các bạn đã biết, các nước có vốn đầu tư ra nước ngoài, về cơ bản sẽ áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu từ năm 2024 để thu thêm phần chênh lệch từ mức thuế thực tế so với thuế tối thiểu toàn cầu (15%), trong đó có các nước có số vốn đầu tư lớn vào Việt Nam như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore…
Trong đó, các nước thuộc Liên minh châu Âu, các nước châu Âu không phải thành viên của EU như Thụy Sĩ, Vương Quốc Anh, Na Uy và các nước, khu vực tại châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông (Trung Quốc), Úc sẽ áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu từ năm 2024.
Riêng Mỹ đã nâng mức thuế suất tối thiểu của Cơ chế thuế tối thiểu của hiện hành của Mỹ từ 10,5% lên 21% và sửa đổi các quy tắc liên quan để phù hợp với các quy định về Thuế tối thiểu toàn cầu.
Các nước nhận vốn đầu tư từ nước ngoài, tương tự như Việt Nam đang nghiên cứu để đưa ra chính sách ứng phó thuế tối thiểu toàn cầu, trong đó có việc áp dụng quy định thuế bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn để tránh việc nộp thuế bổ sung đối với phần thu nhập của công ty thành viên có thuế suất thực tế thấp hơn mức tối thiểu về các nước có công ty mẹ đóng trụ sở chính.
Đồng thời các nước này cũng nghiên cứu một số giải pháp hỗ trợ về tài chính để giữ chân các doanh nghiệp FDI thuộc đối tượng của thuế tối thiểu toàn cầu và thu hút các nhà đầu tư mới. Cụ thể: Indonesia áp dụng Quy định IIR từ năm 2024 và UTPR từ năm 2025. Malaysia áp dụng Thuế tối thiểu toàn cầu từ năm 2024. Thái Lan áp dụng Thuế tối thiểu toàn cầu từ năm 2025.
Ngoài ra, Thái Lan đề xuất thu thuế bổ sung thuế tối thiểu nội địa đạt chuẩn và thực hiện phân bổ 50% - 70% nguồn thu thuế bổ sung này sang Quỹ Hỗ trợ công nghiệp trọng điểm thuộc Đạo luật tăng cường cạnh tranh. Quỹ này sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp một phần do thực hiện việc điều chỉnh tăng thuế tối thiểu toàn cầu.
Đối với Trung Quốc, hiện nước này chưa xác định thời gian bắt đầu áp dụng các quy định của thuế tối thiểu toàn cầu. Đối với các nước Châu Phi muốn ban hành quy định thuế bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn, theo đó tại Diễn đàn quản lý thuế châu Phi đã phát triển phương pháp tiếp cận đề xuất để soạn thảo luật thuế bổ sung tối thiểu trong nước.
Phóng viên: Thưa ông, ưu đãi thuế, phí vẫn luôn là một trong những công cụ quan trọng để thu hút các nhà đầu tư đến Việt Nam. Vậy việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu sẽ ảnh hưởng như thế nào đến năng lực cạnh tranh, thu hút đầu tư của Việt Nam?
Ông Lưu Đức Huy: Trong quá trình nghiên cứu, Tổng cục Thuế đã đưa ra nhận định và đánh giá, thuế tối thiểu toàn cầu có thể tác động đến vị thế cạnh tranh của Việt Nam trên nhiều phương diện như:
Thứ nhất, việc áp dụng Thuế tối thiểu toàn cầu sẽ khiến các chính sách ưu đãi thuế hiện tại của Việt Nam trở nên kém hấp dẫn với các nhà đầu tư là các Tập đoàn công ty đa quốc gia (MNE) thuộc đối tượng áp dụng. Đây chính là cấn đề có thể ảnh hưởng tới việc thu hút và mở rộng đầu tư chất lượng cao từ phía các Tập đoàn MNE này bởi đây chính là những doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế của Việt Nam.
Đồng thời, thuế tối thiểu toàn cầu cũng gây ra tác động không nhỏ tới các doanh nghiệp vệ tinh của các Tập đoàn MNE cũng như có thể dẫn đến việc chuyển dịch đầu tư từ Việt Nam sang quốc gia khác có chính sách ưu đãi hấp dẫn hơn, môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi hơn.
Việc thiếu vắng các Tập đoàn MNE lớn cũng như các DN vệ tinh sẽ ảnh hưởng lớn tới môi trường đầu tư và vị thế cạnh tranh của Việt Nam trên quốc tế.
Thứ hai, ngoài sự đóng góp về vốn đầu tư cũng như tạo việc làm cho người lao động, các doanh nghiệp FDI cũng đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực trong nước, xây dựng các hệ sinh thái ngành, đặc biệt trong lĩnh vực quan trọng là công nghiệp hỗ trợ, kết nối doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu để góp phần phát triển công nghiệp Việt Nam.
Theo đó việc chuyển dịch đầu tư từ các doanh nghiệp FDI lớn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến mục tiêu phát triển công nghiệp quốc gia của Việt Nam.
Thứ ba, các Tập đoàn MNE (ví dụ như Samsung - Hàn Quốc) trong những năm vừa qua đã đóng góp nhiều vào tăng trưởng xuất khẩu và dự trữ ngoại hối của Việt Nam, vì vậy thuế tối thiểu toàn cầu cũng sẽ có tác động trên cả phương diện này.
Thứ tư, qua khảo sát cho thấy, chính sách và quy định không rõ ràng, khó khăn về thủ tục hành chính và thủ tục visa là những rào cản lớn nhất để doanh nghiệp nước ngoài quyết định đầu tư vào Việt Nam. Đặc biệt, khó khăn về thủ tục hành chính là yếu tố lớn nhất (chiếm 70%) mà Việt Nam cần phải cải thiện để thu hút đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, cải thiện về thủ tục visa và cho phép chuyên gia nước ngoài làm việc tại Việt Nam cũng ngày càng quan trọng, chiếm 47% những yếu tố để thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó là các yếu tố về phát triển về cơ sở hạ tầng (chiếm 53%), phát triển, đào tạo nguồn nhân lực (chiếm 35%), phát triển về tăng trưởng xanh (chiếm 29%).
Đặc biệt, yếu tố ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đứng gần cuối danh sách những yếu tố thu hút đầu tư nước ngoài (chỉ chiếm 28%). Như vậy, việc thay đổi chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp do tác động của thuế tối thiểu toàn cầu cũng ảnh hưởng một phần trên phương diện các chỉ số xếp hạng tín nhiệm quốc gia, những yếu tố khác liên quan tới cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh cần được chú trọng hơn.
Phóng viên: Như vậy, việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu từ ngày 1/1/2024 sẽ tác động như thế nào đối với các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam cũng như các doanh nghiệp Việt Nam đang đầu tư tại nước ngoài?
Ông Lưu Đức Huy: Đối với các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp phổ thông ở Việt Nam là 20% về cơ bản đã đảm bảo quy định thuế tối thiểu toàn cầu.
Đồng thời, chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành mà nhiều trường hợp được hưởng nếu tính trong cả thời gian hoạt động bình thường của dự án (khoảng 50 năm) thì cũng không ưu đãi hơn so với mức nộp 15% (mức Thuế tối thiểu toàn cầu) suốt đời dự án, trừ trường hợp dự án được kéo dài thời gian ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% từ 15 năm lên 30 năm và dự án được hưởng ưu đãi theo Quyết định số 29/2021/QĐ-TTg.
Tuy nhiên, do áp dụng ưu đãi thuế suất thấp và được ưu đãi miễn thuế, giảm thuế nên trên thực tế thuế suất đối với các dự án đầu tư của doanh nghiệp FDI có ưu đãi sẽ có thuế suất thực tế trong thời gian được hưởng ưu đãi thấp hơn mức thuế suất tối thiểu là 15%.
Tổng cục Thuế đã rà soát theo số liệu quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2022, có khoảng 120 Tập đoàn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam (với khoảng trên 1000 DN) chịu ảnh hưởng của Thuế tối thiểu toàn cầu nếu Thuế tối thiểu toàn cầu được áp dụng từ năm 2024 (sau khi đã loại trừ các trường hợp không phải áp dụng Thuế tối thiểu toàn cầu).
Theo đó, nếu các quốc gia khác đều áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu bắt đầu từ năm 2024, các quốc gia có công ty mẹ sẽ được thu thêm phần thuế chênh lệch năm 2024 ước tính khoảng trên 14.000 tỷ đồng.
Về phía các Tập đoàn của Việt Nam có đầu tư ra nước ngoài thuộc đối tượng áp dụng của Thuế tối thiểu toàn cầu, Tổng cục Thuế đã đánh giá sơ bộ ảnh hưởng của thuế tối thiểu toàn cầu tới 2 Tập đoàn của Việt Nam có đầu tư lớn ra nước ngoài là Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN). Theo đó, những tác động cơ bản là:
Đối với Tập đoàn Viettel, về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của Tập đoàn Viettel tại các nước thì về cơ bản, mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp tại các nước do Viettel đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp qua VTG đầu tư đều trên 15%, trừ tại Viettel Đông Timor mức thuế 10% (đươc miễn thuế theo từng khu vực, bình quân thuế suất thực tế từ 5-7 %).
Như vậy, nếu Việt Nam áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu (Quy định IIR) mà Đông Timor không áp dụng quy định thuế tối thiểu nội địa bổ sung đạt chuẩn (QDMTT) thì sẽ có khả năng thu thêm phần thuế thu nhập doanh nghiệp chênh lệch giữa thuế tối thiểu toàn cầu so với mức thuế thực tế Viettel phải nộp tại Đông Timor.
Còn đối với Tập đoàn PVN, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của Tập đoàn PVN tại các nước về cơ bản, các dự án đầu tư ra nước ngoài của PVN tập trung chủ yếu là các dự án trong lĩnh vực dầu khí, chịu mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc loại thuế tương tự thuế thu nhập doanh nghiệp tại các quốc gia khá cao từ 30% đến 60%. Do đó việc áp dụng Thuế tối thiểu toàn cầu hiện tại không ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài của PVN.
Đối với các tập đoàn khác có công ty mẹ tối cao tại Việt Nam, thuộc đối tượng áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu, Tổng cục Thuế đang tiếp tục rà soát, đanh giá tác động đối với các Tập đoàn này (bao gồm tác động của quy định tổng hợp thu nhập chịu thuế tối thiểu theo quy định IIR và tác động của quy định QDMTT.
Phóng viên: Nhiều chuyên gia cho rằng việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu đang tạo ra thách thức với Việt Nam nhưng cơ hội cũng không ít. Vậy xin ông có thể cho biết đây là những cơ hội gì?
Ông Lưu Đức Huy: Việc áp dụng các quy định về thuế tối thiểu toàn cầu mang lại cho Việt Nam nhưng cơ hội mới, như: Góp phần tăng nguồn thu ngân sách nhà nước từ phần thu thuế bổ sung; Đồng thời, tăng cường hội nhập quốc tế theo hướng sẽ góp phần tăng cường hội nhập quốc tế của Việt Nam, cải cách hệ thống thuế theo hướng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế thông qua việc sửa đổi chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp luật có liên quan.
Bên cạnh đó còn giảm thiểu hiện tượng trốn thuế, tránh thuế, chuyển giá, chuyển lợi nhuận bởi việc các nước ban hành các chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp để thu hút đầu tư nước ngoài khiến cho hiện tượng trốn thuế, tránh thuế, chuyển giá, chuyển lợi nhuận diễn ra ngày càng phức tạp có thể dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp sẽ lợi dụng các cơ hội để chuyển lợi nhuận từ nước có thuế suất cao sang nước có thuế suất thấp hơn, từ đó xảy ra tình trạng thất thu thuế.
Trong bối cảnh đó, việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu sẽ tạo một bằng chung về thuế tại tất cả các quốc gia, từ đó tránh việc cạnh tranh về thuế giữa các nước hiện nay và giảm thiểu tình trạng chuyển giá, chuyển lợi nhuận, giữ vững nguồn thu thuế.
Phóng viên: Như vậy, Tổng cục Thuế đã có những đề xuất cụ thể gì về chính sách thuế để thích ứng với việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu từ ngày 1/1/2024 tới đây?
Ông Lưu Đức Huy: Theo hướng dẫn của OECD, để áp dụng Thuế tối thiểu toàn cầu thì các nước cần quy định vào trong hệ thống pháp luật của mình cho phù hợp. Thuế tối thiểu toàn cầu là quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp.
Theo quy định tại khoản 4, Điều 70 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì Quốc hội “quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế”. Vì vậy, việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu cần phải trình Quốc hội xem xét, quy định.
Hiện nay, Tổng cục Thuế là đơn vị được Bộ Tài chính giao nhiệm vụ nghiên cứu về vấn đề này. Theo đó, Tổng cục Thuế đã tham mưu cho Bộ Tài chính tổ chức và phối hợp với các bộ, ngành và Ủy ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội tổ chức các hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế, từ đó phối hợp với các đơn vị chức năng của Bộ Tài chính đẩy mạnh nghiên cứu các giải pháp để báo cáo Bộ Tài chính, Chính phủ, Quốc hội các phương án triển khai.
Trong thời gian tới, Tổng cục Thuế sẽ tiếp tục tăng cường công tác tham mưu cho Bộ Tài chính hệ thống các văn bản của Quốc hội, Chính phủ quy định áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu theo đúng hướng dẫn của OECD (như: Quy định mẫu, Tài liệu diễn giải, Hướng dẫn hành chính, Hướng dẫn quy định miễn trừ và giảm phạt và các văn bản quy định chi tiết khác do Diễn đàn hợp tác chung OECD/G20 về quy định chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận ban hành).
Trong đó tập trung đề xuất áp dụng quy định về thuế bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn (QDMTT) và quy định về tổng hợp thu nhập chịu thuế tối thiểu (IIR).
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!
Thuế bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn (QDMTT) được hiểu như thế nào?
QDMTT sẽ thay đổi thứ tự mà các khu vực tài phán được quyền tính thuế bổ sung khi thuế suất thực tế của một đối tượng bị điều chỉnh bởi Trụ cột II giảm xuống dưới mức tối thiểu toàn cầu 15%.
Theo đó, quốc gia thực hiện QDMTT sẽ được ưu tiên đầu tiên để thu thuế bổ sung từ các đối tượng nằm trong khu vực tài phán của mình. Nếu không có QDMTT, nguồn thu đó sẽ được chuyển đến một quốc gia khác như được xác định theo thứ tự quy tắc Trụ cột II. Đối với các doanh nghiệp, tác dụng của QDMTT là định hướng nơi phải trả khoản thuế bổ sung - mặc dù không thay đổi về số tiền thuế bổ sung phải nộp
Như vậy, nếu áp dụng QDMTT, quốc gia đó sẽ giữ được quyền đánh thuế và các nhà đầu tư cũng xác định được nghĩa vụ phải đóng thuế bổ sung tại quốc gia đang thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh thay vì chuyển đến một quốc gia khác để nộp khoản thuế bổ sung này.