9 nhóm giải pháp và 4 nhóm ưu tiên tăng khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp
Để tăng khả năng hấp thụ vốn cho nền kinh tế, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đề xuất Chính phủ, Bộ, ngành và NHNN cần ưu tiên thực hiện đồng bộ 9 nhóm giải pháp hỗ trợ cả phía cung và phía cầu; và 4 nhóm giải pháp doanh nghiệp cần ưu tiên thực hiện.
Bối cảnh kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm 2023 và dự báo năm 2023-2024
Trong 6 tháng đầu năm, dù còn nhiều khó khăn thách thức, song kinh tế thế giới (KTTG) tiếp tục xu hướng phục hồi nhẹ, tránh được nguy cơ suy thoái trong quý I/2023 như dự báo hồi đầu năm.
Tuy nhiên, KTTG tiếp tục đối mặt với những thách thức chính như: (i) xung đột dai dẳng và khó lường tại Ukraina; (ii) NHTW nhiều nước duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiểm soát lạm phát, lãi suất vẫn còn ở mức cao (lãi suất cơ bản tại Mỹ là 5-5,25%/năm, lãi suất tái cấp vốn tại châu Âu là 4%/năm - cao nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008); (iii) nhiều đầu tàu kinh tế suy yếu hoặc phục hồi thấp hơn dự kiến (điển hình là việc kinh tế EU rơi vào suy thoái kỹ thuật, đà phục hồi của kinh tế Trung Quốc thiếu bền vững và chưa tạo được sự lan tỏa cho các nền kinh tế khác, thậm chí đối mặt với nguy cơ giảm phát); (iv) đầu tư, thương mại quốc tế suy giảm; tâm lý tiết kiệm, phòng thủ tăng lên, khiến nhu cầu hàng hóa, dịch vụ sụt giảm, ảnh hưởng đến lĩnh vực sản xuất tại nhiều nước; (v) sự sụp đổ của một số ngân hàng tại Mỹ và Thụy Sỹ, rủi ro tài chính - tiền tệ trong tầm kiểm soát song vẫn ảnh hưởng tới niềm tin của người dân và nhà đầu tư; (vi) biến đổi khí hậu với thời tiết khắc nghiệt, cực đoan cản trở đà phục hồi kinh tế của các nước.
Về triển vọng, các tổ chức quốc tế như IMF, WB, OECD,... nhận định tăng trưởng KTTG năm 2023 ở mức khoảng 2,1% (theo WB), 2,7% (theo OECD), 2,8% (theo IMF), trước khi phục hồi tăng khoảng 3% năm 2024; một số nước/khu vực vẫn có thể đối mặt với “suy thoái kỹ thuật” trong nửa cuối năm. Trong khi đó, lạm phát (CPI) toàn cầu được dự báo giảm từ mức 6,4% năm 2023 (năm 2022 ở mức 7,6%) xuống khoảng 4,4% năm 2024 (theo WB), song vẫn còn cao so với lạm phát mục tiêu của hầu hết các nước (khoảng 2%). Về thương mại, theo WB (tháng 6/2023), thương mại thế giới năm 2023 và 2024 dự báo tăng trưởng lần lượt khoảng 1,7% và 2,8% (so với mức tăng 6% năm 2022); cho thấy nhu cầu hàng hóa thế giới đang bị thu hẹp đáng kể. Về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), theo UNCTAD (tháng 7/2023), dự báo dòng vốn FDI sẽ còn nhiều khó khăn trong năm 2023, sau khi sụt giảm 12% năm 2022.
Ở trong nước, Chính phủ nỗ lực tháo gỡ vướng mắc, khó khăn của các thị trường, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng; các cân đối lớn được đảm bảo; dịch vụ phục hồi tốt, tiêu dùng trong nước duy trì đà tăng trưởng tích cực (tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2023 tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước); giải ngân đầu tư công được đẩy mạnh (tăng 20,5%) - là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế; xu hướng hạ nhiệt lạm phát khá rõ nét (CPI bình quân 6 tháng tăng 3,29%); lãi suất giảm (đến cuối tháng 6, lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới bằng VND của các NHTM giảm khoảng 1-1,2% so với cuối năm 2022), tỷ giá cơ bản ổn định, những điều kiện này tạo cơ sở cho sự phục hồi tăng trưởng trong 6 tháng cuối năm và năm tới...
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn đối mặt với nhiều khó khăn khi rủi ro, thách thức từ bên ngoài như nêu trên cùng với những khó khăn, thách thức nội tại; hết 6 tháng đầu năm 2023, GDP tăng trưởng thấp hơn mục tiêu đề ra (tăng 3,72% thấp hơn nhiều so với mục tiêu của Chính phủ đã đề ra tại Nghị quyết số 01 là 6,2%); hoạt động xuất - nhập khẩu tiếp tục đà suy giảm dù có phần chậm lại (giảm 15,2%), trong đó xuất khẩu giảm 12,1%, dẫn đến sản xuất công nghiệp bị thu hẹp (giảm 1,2% so cùng kỳ) và chỉ số PMI sản xuất luôn ở mức thu hẹp (dưới 50 điểm) từ tháng 11/2022 đến nay (ngoại trừ tháng 2/2023 ở mức 51,2 điểm, hiện đạt 46,2 điểm tháng 6/2023); thu hút vốn FDI kém khả quan (vốn đăng ký giảm 4,3%, giải ngân FDI tăng nhẹ 0,5%); thu ngân sách nhà nước (NSNN) giảm 7,8% do kinh tế tăng trưởng thấp, hoạt động của doanh nghiệp (DN) gặp nhiều khó khăn (số DN đăng ký mới và quay trở lại thị trường giảm 3% trong khi số DN rút lui khỏi thị trường tăng 20%); quá trình cơ cấu lại nền kinh tế còn chậm; tăng trưởng tín dụng thấp (tăng 4,73%) trong khi nợ xấu gia tăng (nợ xấu nội bảng của hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) cuối năm 2022 khoảng 1,92% và tăng lên 2,91% cuối quý I/2023; tình trạng thiếu việc làm, cắt giảm lao động, giờ làm, giảm thu nhập ở một bộ phận doanh nghiệp diễn ra.
Khó khăn của doanh nghiệp và nguyên nhân
Hiện nay, tổng hợp lại cho thấy, doanh nghiệp đang gặp phải 4 khó khăn, vướng mắc chính, gồm:
Thứ nhất là vấn đề pháp lý, môi trường kinh doanh. Dù đang được quan tâm cải thiện, tháo gỡ dần, khâu thực thi vẫn chậm và yếu, một phần là do quy định pháp luật chưa đồng bộ, chưa đủ rõ ràng, nhưng chủ yếu là do nỗi lo sợ trách nhiệm, sợ sai, chưa vì cái chung trong khi năng lực, trình độ của công viên chức còn hạn chế và khâu phối hợp chưa tốt. Đây là thách thức, bất cập lớn nhất, cũng là nguyên nhân chính làm suy giảm niềm tin.
Thứ hai là vấn đề tài chính, thể hiện qua ba khía cạnh:
(i) Một là nghĩa vụ thuế và phí đáo hạn. Điều này đã và đang được Quốc hội, Chính phủ hỗ trợ thông qua việc cho phép giãn hoãn tiền thuế, phí, tiền thuê đất năm 2023, giảm 2% thuế GTGT và giảm 50% mức thu lệ phí trước bạ đối với ô tô trong 6 tháng cuối năm. Tổng giá trị của các chính sách hỗ trợ này theo ước tính của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV (ĐT&NC BIDV) là khoảng 206-207 nghìn tỷ đồng, tương đương NSNN giảm thu khoảng 60 - 61 nghìn tỷ đồng.
(ii) Hai là nghĩa vụ nợ phải trả cho đối tác, khách hàng, nợ đọng lẫn nhau. Điều này, cùng với hạn chế về tiếp cận vốn (như chi tiết dưới đây), khiến doanh nghiệp gặp khó khăn về thanh khoản khi thành phần tiền gửi của các tổ chức kinh tế (TCKT) trong cung tiền tăng chậm lại kể từ quý II/2022, và thậm chí giảm kể từ tháng 2/2023 (Hình 1). Từ đó dẫn tới tốc độ tăng cung tiền (so với cùng kỳ) đã liên tục giảm từ tháng 1/2022 đến tháng 3/2023, trước khi tăng nhẹ trong tháng 4/2023.
Hình 1. Tăng tổng phương tiện thanh toán, 1/2021-4/2023 (%, so cùng kỳ)
(iii) Ba là tiếp cận vốn. Đối với kênh tín dụng, theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến ngày 30/6/2023, dư nợ tín dụng nền kinh tế đạt trên 12,4 triệu tỷ đồng, tăng trưởng 4,73% so với đầu năm (đến nay giảm về mức khoảng hơn 4%), tương đương với cùng kỳ năm 2020 và thấp hơn nhiều cùng kỳ của các năm còn lại trong giai đoạn 2018-2022. Trong đó, dư nợ đối với doanh nghiệp khoảng 6,3 triệu tỷ đồng (tăng 4,66% so với cuối năm 2022, chiếm 51% dư nợ nền kinh tế). Dư nợ đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đạt gần 2,3 triệu tỷ đồng, tăng gần 4% so với cuối 2022, chiếm khoảng 19% tổng dư nợ nền kinh tế.
Trong đó, tăng trưởng tín dụng thấp ở hầu hết các lĩnh vực (trừ xây dựng) (Hình 2).
Hình 2. Tăng trưởng tín dụng theo ngành nghề (%, so cùng kỳ)
Bên cạnh đó, kênh huy động vốn từ thị trường cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) vẫn bị thu hẹp (do thị trường cổ phiếu phục hồi chậm, thị trường TPDN tiếp tục trầm lắng trong bối cảnh nhiều yếu tố bất lợi từ cuối năm 2022 vẫn chưa kết thúc). Hết 6 tháng đầu năm 2023, mới có gần 49.000 tỷ đồng TPDN được phát hành, giảm 73,3% so với cùng kỳ năm 2022.
Bốn nguyên nhân chính khiến tín dụng ngân hàng tăng thấp: (i) Bối cảnh chung rủi ro, thách thức hơn, nợ xấu gia tăng khiến các tổ chức tài chính trên thế giới và cả Việt Nam trở nên thận trọng hơn; (ii) khả năng đáp ứng điều kiện vay vốn của bên vay ở mức thấp hơn (do năng lực tài chính suy giảm, giá trị tài sản bảo đảm (nhất là BĐS) bị giảm; (iii) năng lực hấp thụ vốn, nhu cầu vay vốn của cả doanh nghiệp và hộ gia đình ở mức thấp (do thiếu đơn hàng, hoạt động sản xuất kinh doanh bị thu hẹp, e ngại tình trạng trì trệ ở một bộ phận công viên chức); (iv) một số lĩnh vực lâu nay dựa nhiều vào vốn ngân hàng hay TPDN đang suy giảm như bất động sản, công nghiệp, dịch vụ khác và vay tiêu dùng (Hình 2).
Thứ ba là nghẽn cả đầu vào lẫn đầu ra. Chi phí đầu vào, bao gồm chi phí nguyên vật liệu, chi phí sản xuất, logistics, lãi vay đang giảm dần nhưng còn ở mức cao, trong khi đầu ra bị thu hẹp, đơn hàng giảm mạnh, một số lĩnh vực chỉ mới có tín hiệu phục hồi đơn hàng từ đầu quý III/2023.
Thứ tư là vấn đề lao động. Thị trường lao động thay đổi nhiều sau dịch bệnh, trong khi nhiều doanh nghiệp chưa theo kịp, vẫn xảy ra tình trạng mất cân đối cung - cầu (chỗ thiếu, chỗ thừa), việc làm, thu nhập bị giảm, chưa kể thái độ làm việc đôi khi còn cầm chừng…
Riêng với lĩnh vực ngân hàng, các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng là doanh nghiệp và phải đối mặt với 3 khó khăn, thách thức chính: (i) nợ xấu đang gia tăng (như nêu trên); (ii) biên lợi nhuận giảm: xu hướng giảm lãi suất là rõ nét, kéo theo giảm biên lợi nhuận của ngành. Đến cuối tháng 6/2023, lãi suất huy động và cho vay đã giảm khoảng 1-1,2% so với đầu năm theo định hướng chung của Chính phủ và 4 lần giảm lãi suất điều hành của NHNN nhằm hỗ trợ bên vay, thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng. Trong thời gian tới, mặt bằng lãi suất cho vay kỳ vọng giảm tiếp trong khi lãi suất huy động khó có thể giảm sâu được (vì e ngại người dân dịch chuyển sang đầu tư kênh khác nếu lãi suất tiền gửi giảm sâu), khiến biên lợi nhuận cho vay tiếp tục thu hẹp. Thực tế biên lãi cho vay ròng (NIM) của toàn hệ thống ngân hàng đã giảm từ mức 3,3% năm 2022 xuống còn 3% hiện nay và có thể còn giảm thêm; (iii) áp lực tăng vốn vẫn luôn hiện hữu (đặc biệt là với các NHTM có sở hữu Nhà nước). Tính đến cuối tháng 3/2023, hệ số an toàn vốn (CAR) của nhóm NHTM có sở hữu Nhà nước là 9,57%, nhóm NHTM cổ phần là 11,58%, dù đã tăng nhưng vẫn khá thấp so với chuẩn mực Basel II và các NHTM khu vực (khoảng 12-14%), trong khi đó việc tăng vốn trong giai đoạn này còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, điểm tích cực là các NHTM đều có kế hoạch tăng vốn trong năm nay và 1-2 năm tới.
Nguyên nhân gây nên khó khăn đối với doanh nghiệp, chủ yếu gồm:
Về nguyên nhân khách quan, năm nay, kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, lạm phát, lãi suất dần hạ nhiệt nhưng đang ở mức cao… khiến nhu cầu thương mại, đầu tư, tiêu dùng toàn cầu giảm; trong khi đó, ở trong nước, với một nền kinh tế có độ mở lớn, sức chống chịu còn thấp cùng với những khó khăn, bất cập nội tại,… đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế và DN Việt Nam (chưa kể các DN đã yếu đi nhiều sau 3 năm chống chịu với dịch COVID-19).
Về nguyên nhân chủ quan, đến từ môi trường vĩ mô nội tại và bản thân doanh nghiệp. Nền tảng vĩ mô của chúng ta đang khá tốt nhưng sức chịu đựng với các cú sốc bên ngoài còn yếu, nhất là khi nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, phụ thuộc nhiều vào khối FDI (chiếm hơn 70% kim ngạch xuất khẩu, 58% kim ngạch nhập khẩu năm 2022), công nghiệp phụ trợ yếu khiến DN phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên vật liệu; lãi suất cho vay mặc dù đã giảm nhưng vẫn còn ở mức cao.
Trong khi đó, bản thân DN bộc lộ nhiều điểm yếu, hạn chế như: (i) năng lực quản trị còn yếu, năng lực dự báo tình hình hạn chế; (ii) năng lực cạnh tranh của nhiều DN còn thấp, khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu thấp, mức độ không sâu nên dễ bị thay thế, hoặc cắt bỏ trong bối cảnh khó khăn; (iii) nhiều DN phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu (một phần là do công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển) trong khi chưa đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; (iv) nhiều DN sử dụng đòn bẩy tài chính quá cao, đầu tư dàn trải; (iv) Thiếu chính sách liên kết giữa các DN trong nước và DN FDI, dẫn đến còn tình trạng vừa thừa - vừa thiếu; (v) chưa tranh thủ, quyết liệt đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và xanh hóa.
Chính sách hỗ trợ của Quốc Hội và Chính phủ, Bộ, ngành, NHNN
Trong bối cảnh đó, Quốc Hội, Chính phủ đã có nhiều quyết sách nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn, khó khăn của nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, dự toán NSNN và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023; Quốc Hội và Chính phủ đã ban hành nhiều quyết sách nhằm tháo gỡ khó khăn cho lĩnh vực y tế, các thị trường đất đai, bất động sản, vốn, du lịch, chính sách tài khóa mở rộng có trọng tâm, trọng điểm và chính sách tiền tệ nới lỏng thận trọng…
Đối với chính sách tài khóa, Chính phủ ban hành Nghị định 12/NĐ-CP ngày 14/4/2023 về giãn hoãn thuế, tiền thuê đất, giảm 1 số thuế, phí năm 2023 với tổng quy mô khoảng 198,4 nghìn tỷ đồng; Quốc hội đã quyết nghị giảm 2% thuế GTGT trong 6 tháng cuối năm theo đề xuất của Chính phủ; Nghị định 36/2023/NĐ-CP ngày 21/6/2023 về gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt và Nghị định 41/2023/NĐ-CP theo đó giảm 50% lệ phí trước bạ đối với ô tô sản xuất trong nước trong 6 tháng cuối năm… Tổng giá trị các chính sách hỗ trợ này khoảng gần 200.000 tỷ đồng, theo đó, NSNN giảm thu khoảng 65.000 tỷ đồng.
Đối với chính sách tiền tệ:
Về vấn đề lãi suất: Từ cuối quý I/2023 đến hết tháng 6/2023, NHNN đã 4 lần giảm lãi suất điều hành nhằm định hướng giảm lãi suất huy động và cho vay, góp phần tăng khả năng tiếp cận và cung ứng vốn cho nền kinh tế. Đến nay, mặt bằng lãi suất bình quân giảm khoảng 1-1,2% so với đầu năm. Trong thời gian tới, dự báo mặt bằng lãi suất huy động và cho vay sẽ tiếp tục giảm khi việc giảm lãi suất điều hành đã thẩm thấu hơn và theo chỉ đạo chung của Chính phủ (phấn đấu giảm 1,5-2%), cùng với nỗ lực giảm chi phí và cân đối vốn của các TCTD.
Về tăng trưởng tín dụng: Ngày 10/7/2023, NHNN đã điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD năm 2023 với mức giao toàn hệ thống khoảng 14% (mức giao tháng 2 cho toàn hệ thống là khoảng 11%). NHNN cũng yêu cầu các TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng theo chủ trương của Chính phủ, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của người dân và DN. Đồng thời, tăng cường rà soát, cắt giảm thủ tục hành chính, đơn giản hóa và rút ngắn quy trình, thủ tục cho vay, đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận tín dụng…. Vì vậy, tình trạng “cạn room” như năm 2022 không còn tiếp diễn, tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng sẽ phụ thuộc lớn vào khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng và nhu cầu, khả năng hấp thụ vốn của người dân và doanh nghiệp. Dự báo, cả năm 2023, tăng trưởng tín dụng khoảng 12-13%.
Một số chính sách khác: NHNN cũng đã ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại nợ, hoãn giãn nợ, không chuyển nhóm nợ (nhằm kiểm soát nợ xấu, tăng khả năng tiếp cận vốn cho người dân, DN) và Thông tư 03/2023/TT-NHNN (sửa đổi Thông tư 16-2021) nới lỏng một số điều kiện về cho vay, đầu tư TPDN của các TCTD, góp phần tháo gỡ khó khăn hiện tại của thị trường TPDN. Cùng với đó, gói tín dụng 120.000 tỷ đồng của 4 NHTM lớn để cho vay nhà ở xã hội với lãi suất ưu đãi, thấp hơn 1,5-2% so với lãi suất thị trường và gói tín dụng 15.000 tỷ đồng cho vay lâm, thủy sản cũng đã chính thức được hướng dẫn triển khai.
Đối với đầu tư công, ngày 14/3/2023, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 235/QĐ-TTg thành lập 5 tổ công tác kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh thực hiện và giải ngân nguồn vốn đầu tư công tại các Bộ, ngành và địa phương. Ngày 23/3/2023, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 08/CT-TTg về các nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy giải ngân đầu tư công, 3 chương trình mục tiêu quốc gia và Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội 2022-2023.
Kết quả là, trong 6 tháng đầu năm, giải ngân đầu tư công đạt được kết quả tích cực với mức thực hiện từ nguồn ngân sách trong 6 tháng ước đạt 232.200 tỷ đồng, bằng 33% kế hoạch năm và tăng 20,5% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 bằng 32,1% và tăng 10,4%). Tuy nhiên, với mục tiêu rất cao của năm nay (713.000 tỷ đồng, tăng khoảng 25% so với kế hoạch năm 2022) đã được Thủ tướng giao, đòi hỏi các tổ chức, cá nhân người đứng đầu tiếp tục nỗ lực hơn nữa, nhất là các dự án trọng điểm như các dự án thành phần thuộc tuyến cao tốc Bắc - Nam phía đông, sân bay Long Thành, các tuyến vành đai 3 TP.HCM, vành đai 4 Hà Nội; các tuyến luồng hàng hải vào cảng Cái Mép - Thị Vải, Nam Nghi Sơn...
Đối với một số lĩnh vực “nóng” khác: Chính phủ cũng đã ban hành nhiều quyết sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các lĩnh vực y tế, đất đai, bất động sản, xây dựng, du lịch… Phải kể đến là: (i) Nghị định 07/2023/NĐ-CP ngày 3/3/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2021/NĐ-CP về quản lý trang thiết bị y tế, (ii) Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 4/3/2023 về bảo đảm thuốc, trang thiết bị y tế, (iii) Nghị định 08/2023/NĐ-CP ngày 5/3/2023 về sửa đổi, bổ sung và ngưng hiệu lực thi hành một số điều tại các Nghị định quy định về chào bán, giao dịch TPDN riêng lẻ; (iv) Nghị quyết 33/NQ-CP ngày 11/3/2023 về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường BĐS phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững; (v) Nghị định 10/2023/NĐ-CP ngày 3/4/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai; Quyết định 388/QĐ-TTg ngày 3/4/2023 phê duyệt Đề án đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội đến năm 2030; Nghị quyết 58/NQ-CP ngày 21/4/2023 (trên tinh thần Nghị quyết 35/2016) về một số chính sách, giải pháp trọng tâm hỗ trợ DN chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững đến năm 2025; (vi) Nghị quyết 82/NQ-CP năm 2023 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh phục hồi, tăng tốc phát triển du lịch hiệu quả, bền vững.
Một số giải pháp tổng thể tăng khả năng hấp thụ vốn của DN và người dân
Để tăng khả năng hấp thụ vốn cho nền kinh tế, Chính phủ, Bộ, ngành và NHNN cần ưu tiên thực hiện đồng bộ 9 nhóm giải pháp hỗ trợ cả phía cung và phía cầu như sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục nghiêm túc thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 6/1/2023; các chỉ thị, nghị quyết, nghị định gần đây của Quốc Hội, Chính phủ; tổ chức thực hiện đúng thời hạn và tốt những quyết sách mà Quốc hội, Chính phủ đã ban hành như đã nêu trên; tiếp tục bám sát tình hình kinh tế, tài chính quốc tế; chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế để có kịch bản chủ động ứng phó phù hợp; tiếp tục bình ổn, lành mạnh hóa các thị trường (chứng khoán, TPDN, bất động sản, xăng dầu, thanh khoản ngân hàng…) nhằm củng cố niềm tin nhà đầu tư, DN và người dân.
Theo đó, cần lưu ý phải rút ngắn độ trễ chính sách, để chính sách tác động nhanh hơn, quyết liệt hơn. Theo đó, với chính sách tiền tệ, ngoài việc cho phép cơ cấu lại nợ, mua lại trái phiếu, các gói tín dụng; cần tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cả huy động và cho vay; đẩy nhanh cơ cấu lại các TCTD yếu kém nhằm hạn chế cạnh tranh lãi suất không lành mạnh, tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay.
Với chính sách tài khóa, cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện hoàn thuế VAT, các chính sách giãn hoãn thuế, phí, tiền thuê đất, giảm 2% thuế GTGT; xem xét giảm tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội cho DN; xem xét chuyển phần còn lại của Chương trình phục hồi (nhất là cấu phần hỗ trợ tiền thuê nhà, hỗ trợ 2% lãi suất…) sang Quỹ phát triển nhà ở xã hội (mới có thể cho vay lãi suất thấp và nguồn vốn mồi bền vững); nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ phát triển DNNVV và các quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV tại các địa phương...
Đặc biệt, mọi quyết sách đều cần phân giao trách nhiệm, thời hạn cụ thể, có chế tài nghiêm nếu không thực hiện. Những quyết sách này mới chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ phải là giải quyết được tâm lý sợ sai, đùn đẩy, sợ trách nhiệm. Theo đó, cơ chế, chính sách bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, vì cái chung cần sớm được cụ thể hóa và nhất quán, đồng bộ thực hiện. Về lâu dài, chính sách tinh giản bộ máy, nâng cao trách nhiệm và chất lượng thực thi công vụ gắn với cải cách tiền lương là cấp thiết.
Thứ hai, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với các Bộ Tài chính, các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh triển khai Chương trình phục hồi 2022-2023, các chương trình mục tiêu quốc gia và giải ngân đầu tư công, nhất là đối với các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao, đầu tư cơ sở hạ tầng; đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hồ sơ dự án, giải phóng mặt bằng, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, ứng dụng CNTT trong giải quyết thủ tục về đầu tư công; kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong triển khai; chú trọng cơ cấu lại nền kinh tế (nhất là các DNNN, dự án yếu kém, TCTD yếu kém…) nhằm thu hút và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn.
Thứ ba, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó cần chú trọng các động lực tăng trưởng: (i) quyết tâm đẩy mạnh giải ngân đầu tư công bởi theo đánh giá của Viện ĐT&NC BIDV, nếu giải ngân được 95% tổng vốn 713.000 tỷ đồng như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đầu tư Nhà nước có thể tăng 30%, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 13,2% và đóng góp 2 điểm % vào tăng trưởng GDP năm 2023; (ii) kích cầu tiêu dùng nội địa, theo tính toán của chúng tôi, tiêu dùng (loại trừ yếu tố giá) tăng thêm 1 điểm % sẽ giúp GDP tăng thêm 0,2 điểm %; (iii) quan tâm thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng của các đầu tàu nền kinh tế, nhất là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh (hai thành phố này đóng góp 39% tăng trưởng GDP năm 2019)…
Thứ tư, tiếp tục thực hiện phối hợp chính sách hiệu quả (đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính sách giá cả và các chính sách vĩ mô khác), nhằm tiếp tục giảm lãi suất, bình ổn tỷ giá, giá cả hàng hóa thiết yếu và các thị trường tài chính, đất đai, xây dựng, bất động sản…; nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi, tăng trưởng. Theo đó, duy trì chính sách tài khóa mở rộng có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng khâu thực thi; chính sách tiền tệ chuyển trạng thái từ “chắc chắn” sang “nới lỏng, linh hoạt” cùng với việc đẩy mạnh cơ cấu lại các TCTD gắn với xử lý nợ xấu, đảm bảo an toàn và ổn định hệ thống.
Thứ năm, cần có đánh giá đúng và trúng thực trạng tình hình doanh nghiệp; từ đó tháo gỡ kịp thời và chính xác những tồn tại, vướng mắc đã và đang được chỉ ra; quan tâm hỗ trợ DN chịu tác động tiêu cực từ suy giảm xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng bằng cách: (i) khai thác tốt hơn các Hiệp định tự do thương mại (FTAs) đã ký kết, thực hiện hiệu quả hơn công tác xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, đa dạng hóa hàng hóa và thị trường xuất khẩu, đầu tư; (ii) tiếp tục đẩy mạnh cải thiện thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh, thủ tục hành chính, nhất là bộ máy thực thi công vụ; (iii) triển khai hiệu quả các biện pháp khuyến mại, kích cầu thương mại và du lịch trong nước; (iv) rà soát, cập nhật và điều chỉnh cơ chế, chính sách thu hút FDI theo hướng tập trung vào cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, nhất là các vấn đề về thể chế, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực - là các yếu tố cơ bản khi đưa ra các quyết định kinh doanh của nhà đầu tư; (v) quyết liệt tháo gỡ các vướng mắc, rào cản lớn đối với DN hiện nay, nhất là về vấn đề pháp lý và tiếp cận thị trường (nhất là đất đai, điện năng, phòng cháy chữa cháy, đăng kiểm; visa cho du khách và chuyên gia; hoàn thuế GTGT…); những vụ việc vi phạm về chứng khoán, bất động sản…cần sớm được giải quyết dứt điểm, củng cố niềm tin của người dân và DN.
Thứ sáu, gia tăng nguồn lực cho các TCTD để có thể hỗ trợ nền kinh tế. Để tăng nguồn lực cho các TCTD, Quốc Hội, Chính phủ tiếp tục cho các NHTM nhà nước giữ lại lợi nhuận nhà nước hàng năm để tăng vốn, tạo điều kiện các TCTD dẫn dắt, tham gia tái cơ cấu các TCTD, cũng như tiết giảm chi phí, có điều kiện triển khai gói hỗ trợ và giảm mặt bằng lãi suất cho vay.
Thứ bảy, đồng bộ phát triển thị trường tài chính cân bằng hơn, theo đó, cần tập trung tháo gỡ khó khăn cho thị trường TPDN (cũng là tăng khả năng huy động vốn trung – dài hạn của DN), giảm bớt áp lực tín dụng trung dài hạn cho hệ thống ngân hàng; có đề án, chương trình và giải pháp cụ thể về việc nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam (từ “cận biên” lên “mới nổi”).
Thứ tám, đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện thể chế (nhất là sửa đổi Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Các TCTD….); cùng với việc tháo gỡ rào cản, chú trọng khâu thực thi và phối hợp chính sách; quan tâm xây dựng thể chế chính sách cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, vừa tận dụng cơ hội, vừa hỗ trợ vượt qua khó khăn, thách thức. Xây dựng chiến lược, giải pháp cụ thể để tăng tính độc lập, tự chủ, tự cường và nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế, của các ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp Việt Nam.
Đối với doanh nghiệp và các tổ chức tài chính:
Trong khó khăn chung, bản thân DN cần ưu tiên thực hiện 4 nhóm giải pháp cụ thể sau đây:
Một là, DN cần quyết tâm cơ cấu lại, giảm chi phí; nâng cao hiệu quả, trách nhiệm sử dụng vốn, minh bạch (theo đúng kế hoạch, hồ sơ phát hành công cụ nợ hoặc vay vốn) và giải quyết đúng các cam kết trả nợ (chấp nhận bán tài sản, nếu cần), chủ động có phương án, giải pháp cụ thể đối với TPDN đáo hạn còn lại trong năm 2023 và 2024; đẩy mạnh cơ cấu lại hoạt động như xem xét tạm dừng các dự án không cấp bách, ưu tiên các dự án đã cam kết với nhà đầu tư… Đây cũng là điều kiện tất yếu để tăng sức khỏe của DN, giúp DN dễ dàng đáp ứng tốt hơn với các điều kiện của thị trường vốn (tín dụng, phát hành TPDN…).
Hai là, nâng cao tính công khai, minh bạch trong huy động vốn, sử dụng vốn: (i) Các DN cần có phương án huy động vốn cụ thể, khả thi, trung thực; lựa chọn phương thức, thời điểm huy động vốn phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn minh bạch, khả năng trả nợ…; (ii) Xây dựng qui trình, có lộ trình áp dụng xếp hạng tín nhiệm TPDN phù hợp; (iii) Tăng cường thu hút vốn đầu tư chiến lược, tăng tỷ lệ sở hữu nước ngoài nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả kinh doanh, uy tín của DN.
Ba là, đa dạng hóa nguồn vốn (tránh chỉ phụ thuộc vào một nguồn tín dụng, quan tâm hơn đến phương thức thuê tài chính, tài trợ chuỗi cung ứng); tăng cường kiểm soát rủi ro, nhất là rủi ro tài chính, lãi suất, tỷ giá (có thể hợp tác với các tổ chức tài chính)…
Bốn là, DN cũng cần tính cả bài toán dài hơi hơn như chú trọng chuyển đổi số, ứng dụng CNTT trong phát triển, quản lý, vận hành hoạt động DN; đào tạo, phát triển đội ngũ nhân sự chất lượng cao và đẩy mạnh xanh hóa, phát triển bền vững. Đây cũng là xu thế tất yếu hiện nay và trong thời gian tới.
Đối với các tổ chức tài chính (bên cho vay), chủ động thực hiện Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại nợ, Thông tư 06 (sửa đổi Thông tư 39) về hoạt động cho vay của TCTD; rà soát, linh hoạt hơn, phù hợp hơn trong việc áp dụng các điều kiện tín dụng (không hạ chuẩn) như phương án nhận TSBĐ là hàng hóa, hàng tồn kho...; đơn giản hóa quy trình, thủ tục, đẩy mạnh ứng dụng CNTT và chuyển đổi số (vừa là tiết giảm chi phí, vừa giảm thủ tục giấy tờ và phù hợp với xu thế)….