Phát huy nội lực để vượt "dòng xoáy khó khăn", thúc đẩy kinh tế tăng tốc, phát triển
Thị trường tài chính Việt Nam đang đối mặt với những khó khăn, thách thức chưa từng có. Vậy giải pháp nào để hỗ trợ hệ thống tài chính - ngân hàng, các công ty chứng khoán, cộng đồng doanh nghiệp vượt thách thức, đón bắt cơ hội, góp phần quan trọng thúc đẩy nền kinh tế tăng tốc, phát triển?
Nền kinh tế đối mặt với nhiều thách thức chưa từng có
Phát biểu tại Diễn đàn Cấp cao Cố vấn tài chính Việt Nam 2023 (Vietnam Wealth Advisor Summit 2023) lần đầu tiên do Báo Đầu tư phối hợp với Cộng đồng Cố vấn tài chính Việt Nam (VWA) tổ chức, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương khẳng định, tình hình thế giới từ đầu năm đến nay tiếp tục biến động nhanh, phức tạp. Các doanh nghiệp nói riêng, cả nền kinh tế nói chung, đang phải “bơi trong dòng xoáy khó khăn”.
Thị trường tài chính Việt Nam cũng vậy. Không chỉ thị trường trái phiếu doanh nghiệp, mà còn cả thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản… đang đối mặt với những khó khăn, thách thức chưa từng có.
Điểm tích cực là xu thế kinh tế đang dần khả quan hơn. Các số liệu thống kê về sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, giải ngân vốn đầu tư công… đều cho thấy điều đó. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 7/2023 đã tăng 3,9% so với tháng trước và tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước…
Tính chung 7 tháng, thu hút đầu tư nước ngoài đã lần đầu tiên trong năm tăng 4,5% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt gần 16,24 tỷ USD; kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 195,4 tỷ USD, vẫn giảm 10,6% so với cùng kỳ năm trước, nhưng xuất siêu trên 16,5 tỷ USD…
Có được kết quả này, theo Thứ trưởng Trần Quốc Phương là nhờ sự nỗ lực của toàn hệ thống chính trị, đặc biệt là trong công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Kể từ đầu năm tới nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều giải pháp, chính sách, chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời, hiệu quả, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.
Trong đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước điều hành để giảm mặt bằng lãi suất tiền gửi phù hợp với diễn biến lạm phát, giảm mặt bằng lãi suất cho vay, điều hành tỷ giá linh hoạt, bảo đảm ổn định thị trường ngoại hối và cân đối cung - cầu ngoại tệ.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Trần Quốc Phương cũng cho biết, ngay cả khi năm nay đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5%, thì bình quân hai năm 2024-2025, tăng trưởng GDP phải đạt 7,76%/năm, mới có thể đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm là 6,5%, cận dưới mục tiêu 5 năm 6,5-7%, theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII. Còn nếu tăng trưởng năm 2023 chỉ là 6%, thì bình quân hai năm 2024-2025, phải tăng trưởng 8%/năm.
“Đây là những mức tăng trưởng rất cao, nhất là trong bối cảnh kinh tế toàn cầu vẫn còn quá nhiều yếu tố bất định, còn kinh tế trong nước thì vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro như hiện nay. Rất khó để đạt được các con số này, nếu như không có thêm những cơ chế, chính sách đột phá”, Thứ trưởng Trần Đức Phương trăn trở.
Dự báo, trong những tháng cuối năm 2023 và cả năm 2024, kinh tế Việt Nam tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, từ cả tình hình thế giới, khu vực biến động khó lường và những hạn chế, khó khăn trong nội tại của nền kinh tế. Để kinh tế Việt Nam có thể trụ vững và tiếp tục tăng trưởng và phát triển, để khu vực doanh nghiệp được tiếp sức vượt qua khó khăn, sự vững mạnh của thị trường tài chính, tiền tệ, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp… có ý nghĩa rất quan trọng.
Về bối cảnh quốc tế, ông Nguyễn Bá Hùng, chuyên gia kinh tế trưởng tại Việt Nam, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho rằng, có 2 "dòng xoáy" rất lớn hiện nay và có tác động khác nhau đối với kinh tế Việt Nam là chính sách tiền tệ của Mỹ và nền kinh tế Trung Quốc.
"Mỹ là nhà xuất khẩu chủ lực của nước ta, còn về tương lai, nếu muốn tăng cường năng lực thu hút đầu tư nước ngoài để nâng cấp công nghệ thì Mỹ cũng có thể là đối tác cần tập trung chiến lược. Mặt khác, Trung Quốc là đối tác lớn và truyền thống của Việt Nam, nên rất khó để nói bên nào hơn bên nào. Khi Trung Quốc thực hiện các chính sách về mở rộng quy mô nền kinh tế thì họ sẽ tăng trưởng tốt và Việt Nam có thể sẽ được hưởng lợi theo", ông Hùng nhận định.
Theo ông Hùng, tựu trung lại, môi trường kinh tế quốc tế đang có rất nhiều khó khăn và Việt Nam phải dựa vào nội lực của mình là chính.
Còn theo ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban nghiên cứu tổng hợp, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), kinh tế thế giới còn rất nhiều khó khăn nhưng đã có một số chuyển biến. Các tổ chức quốc tế đã có sự điều chỉnh dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm nay, trong đó IMF đã đưa ra dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 và 2024 là khoảng 3%.
Tuy nhiên, ông Dương cho rằng, bối cảnh kinh tế hiện nay có cả nguy, cả cơ hội cho những ai biết nắm bắt.
Ông Dương cũng phân tích, xu hướng tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát vẫn hiện hữu, song không còn là chủ đạo. Mặc dù FED vẫn giữ thông điệp về khả năng tăng lãi suất nhưng đã có sự đảo chiều ở một số nước, thậm chí tại Việt Nam, trong nửa đầu năm Ngân hàng Nhà nước đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất điều hành.
Mặc dù mặt bằng lãi suất hạ song tín dụng tăng trưởng chậm. Xét tương quan giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng GDP cho thấy sự đồng điệu, khi tăng trưởng tín dụng có xu hướng giảm thì tăng trưởng GDP cũng giảm.
Trên cơ sở đó, tại báo cáo tháng 7/2023, CIEM đã dự báo 3 kịch bản kinh tế vĩ mô Việt Nam năm 2023.
Cụ thể, theo ông Dương, Kịch bản 1 được tính toán trên giả thiết các yếu tố kinh tế thế giới tiếp tục duy trì phù hợp với đánh giá của các tổ chức quốc tế, và Việt Nam duy trì nỗ lực chính sách tương tự như nửa cuối các năm 2021 - 2022.
Kịch bản 2 giữ nguyên hầu hết các giả thiết trong Kịch bản 1 liên quan đến yếu tố kinh tế thế giới, song có một số điều chỉnh về nới lỏng tiền tệ và tài khóa tích cực hơn ở Việt Nam.
Kịch bản 3 có thể xảy ra với giả thiết bối cảnh kinh tế thế giới có một số chuyển biến tích cực hơn (tăng trưởng phục hồi, gián đoạn chuỗi cung ứng đã giảm đáng kể, lạm phát ở Mỹ giảm, thời tiết thuận lợi hơn,…) và sự quyết liệt trong cải cách và điều hành ở Việt Nam, qua đó giúp đạt kết quả tối đa về giải ngân/hấp thụ đầu tư công và tín dụng, cải thiện môi trường kinh doanh và năng suất lao động giúp thúc đẩy và thực hiện hoạt động đầu tư (cả tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài) theo hướng hiệu quả hơn.
Hoá giải thách thức vĩ mô
Để kinh tế Việt Nam có thể trụ vững và tiếp tục tăng trưởng và phát triển, để khu vực doanh nghiệp được tiếp sức vượt qua khó khăn, theo Thứ trưởng Trần Quốc Phương sự vững mạnh của thị trường tài chính, tiền tệ, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp… có ý nghĩa rất quan trọng.
Còn theo TS. Nguyễn Đình Cung, chuyên gia kinh tế, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, mỗi lúc khó khăn bên ngoài thì bên trong có động lực mạnh mẽ để thay đổi.
Mặc dù Thủ tướng và Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo, tuy nhiên TS. Nguyễn Đình Cung cho rằng, trên thực tế cải cách, thay đổi bên trong chưa đủ bù đắp khó khăn từ bên ngoài.
“Chúng ta đang sử dụng quá ít chính sách tài khóa để hỗ trợ doanh nghiệp, thậm chí đang tăng chi phí cho doanh nghiệp”, vị chuyên gia này nói nói. Bên cạnh đó, tỷ lệ giải ngân các gói hỗ trợ doanh nghiệp thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế đạt thấp.
Trong bối cảnh hiện nay, TS. Nguyễn Đình Cung cho rằng, cần tập trung thực hiện các chính sách tài khóa hơn là chính sách tiền tệ, đặc biệt cần thực hiện quyết liệt chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng (VAT) cho doanh nghiệp, đồng thời kéo dài thời gian thực hiện chính sách giảm thuế VAT.
“Dự báo khó khăn còn đến năm 2024, tôi mong Chính phủ duy trì việc giảm, miễn thuế VAT đến hết năm 2025 để kích cầu”, TS. Nguyễn Đình Cung kỳ vọng.
Mặt khác, vấn đề quan trọng hơn cả, theo vị chuyên gia này, đó là cải cách môi trường kinh doanh. Bởi lẽ, trong bối cảnh khó khăn, cải thiện môi trường kinh doanh, giảm chi phí tạo nên sự an toàn, ít rủi ro hơn trong hoạt động kinh doanh, đầu tư của doanh nghiệp.
Còn theo ông Nguyễn Anh Dương, nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát vẫn quan trọng, song cũng cần lưu tâm hơn đến tháo gỡ khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp. Trong đó, cần cải thiện tiếp cận vốn và cả khả năng hấp thụ vốn cho doanh nghiệp; cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng suất lao động; mạnh dạn ban hành quy định về cơ chế thử nghiệm cho các mô hình kinh tế mới (fintech, kinh tế tuần hoàn).
Thứ hai, cần thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết như CPTPP, EVFTA, UKVFTA, RCEP... và nghiên cứu, đàm phán nâng cấp một số FTA của ASEAN. Hành động cụ thể mà ông Dương khuyến nghị là đơn giản hóa thủ tục cấp C/O, đổi mới hoạt động xúc tiến thương mại.
Đặc biệt, ông Dương lưu ý, giải pháp thứ ba cần thu hút và sử dụng hiệu quả đầu tư nước ngoài trong bối cảnh mới, trong đó cân nhắc tăng độ mở cho nhà đầu tư nước ngoài tham gia một số lĩnh vực, liên kết vùng trong thu hút FDI, thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp nước ngoài, đào tạo kỹ năng cho người lao động để đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp FDI…