Vấn đề - Nhận định

WB: Diễn biến giá năng lượng có thể ngăn cản Ngân hàng Nhà nước nới lỏng tiền tệ hơn nữa

Q.L 19/09/2023 - 10:14

Trong báo cáo cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 8/2023, Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định, những biến động tăng giá gần đây của giá năng lượng toàn cầu đòi hỏi phải có sự giám sát chặt chẽ về lạm phát CPI. Điều này cũng có thể ngăn cản Ngân hàng Nhà nước nới lỏng hơn nữa chính sách tiền tệ.

Công nghiệp cải thiện nhẹ nhưng vẫn còn yếu

Theo báo cáo của WB, chỉ số sản xuất công nghiệp của Việt Nam tăng nhẹ 2,6% (so cùng kỳ) vào tháng 8/2023, phù hợp với mức cải thiện khiêm tốn hàng tháng kể từ tháng 5/2023. Sự cải thiện này là do sản xuất công nghiệp phục vụ tiêu dùng trong nước tiếp tục mở rộng, bao gồm thực phẩm và đồ uống cũng như xăng dầu, một phần phản ánh sự vững vàng của cầu nội địa trong tháng qua.

bcjsdb.jpg

Sản xuất đồ nội thất và dệt may cũng được cải thiện trong tháng 7 và tháng 8/2023 so với một năm trước đó. Điều này phản ánh kỳ vọng nhu cầu bên ngoài được cải thiện trước mùa Giáng sinh và điều chỉnh tăng trưởng ở Mỹ và Nhật Bản trong những tháng cuối năm 2023.

Tuy nhiên, sản xuất các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, bao gồm giày dép và sản phẩm da, điện tử, máy tính, điện thoại di động ( bao gồm cả linh kiện), phương tiện cơ giới và thiết bị vận tải tiếp tục giảm trong so với cùng kỳ năm 2022.

Tháng 8, chỉ số nhà quả trị mua hàng (PMI) sản xuất của Việt Nam tăng lên 50,5, sau 5 tháng liên tiếp nằm trong vùng suy giảm (tháng 3 – tháng 7/2023), cho thấy sự cải thiện nhẹ trong điều kiện kinh doanh.

Doanh số bán lẻ cải thiện đôi chút nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với mức trước đại dịch

Doanh số bán lẻ tăng 7,6% (so cùng kỳ) trong tháng 8, cải thiện nhẹ so với mức 5,1% (so cùng kỳ) vào tháng 7/2023. Tuy nhiên, con số này vẫn thấp hơn nhiều so với mức trước COVID-19 (11 – 12%). Chiếm gần 80% tổng doanh số bán lẻ, tốc độ tăng trưởng doanh số bán hàng hóa cải thiện nhẹ từ 7,0% trong tháng 7 lên 7,5% trong tháng 8.

ckjascn.jpg

Trong khi đó, doanh thu dịch vụ tiếp tục tăng 11,4% vào tháng 8/2023, phần lớn là do sự mở rộng của dịch vụ du lịch (21,3%) và dịch vụ lưu trú và nhà hàng (10,8%).

Việt Nam đón khoảng 1,2 triệu du khách quốc tế trong tháng 8, tăng 17% so với tháng 7 - phản ánh mùa du lịch cao điểm trong năm. Lượng khách quốc tế trong 8 tháng đầu năm 2023 đạt 7,8 triệu lượt - tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2022 nhưng vẫn thấp hơn 30% so với mức trước đại dịch (2019).

Thương mại hàng hóa quốc tế tiếp tục giảm nhưng có một số dấu hiệu cải thiện

Xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa tiếp tục nằm trong vùng suy thoái trong tháng 8, giảm lần lượt là 7,3% (so với cùng kỳ) và 8,1% (so cùng kỳ). Xuất khẩu giảm là do xuất khẩu các sản phẩm sản xuất chính giảm, bao gồm điện thoại thông minh (-14,6%), máy móc (-17,9%), dệt may (-17,8%) và giày dép (-19,3%).

anc-.jpg

Phản ánh sự sụt giảm trong xuất khẩu, nhập khẩu các mặt hàng đầu vào trung gian (chiếm khoảng 94% tổng lượng nhập khẩu) cũng giảm mạnh, bao gồm dệt may (-17,2%), thiết bị điện (-16,9%), điện thoại thông minh (-55,3%), máy móc (-11,8%). Sự suy giảm trong thương mại hàng hóa phản ánh nhu cầu tiếp tục yếu từ các thị trường xuất khẩu chính, bao gồm Mỹ và EU, khiến xuất khẩu giảm lần lượt 19,1% và 8,3% trong 8 tháng đầu năm 2023.

Tuy nhiên, xu hướng xuất khẩu và nhập khẩu tổng thể cho thấy sự cải thiện hàng tháng kể từ tháng 5, ghi nhận sự thu hẹp dần mức tăng trưởng âm của cả xuất khẩu và nhập khẩu, cho thấy sự sụt giảm trong xuất khẩu có thể đã chạm đáy.

Hoạt động FDI vẫn ổn định trong bối cảnh bất ổn toàn cầu

Cam kết FDI đạt 1,9 tỷ USD vào tháng, giảm 32% so với tháng 7. Tuy nhiên, cam kết FDI lũy kế 8 tháng đầu năm 2023 lên tới 18,1 tỷ USD, cao hơn 8,2% so với cùng kỳ năm 2022.

cnakna.jpg

Giải ngân FDI vẫn ổn định, đạt 1,5 tỷ USD trong tháng 8/2023, tăng 23,6% so với cùng kỳ năm trước. Giải ngân FDI lũy kế đến tháng 8/2023 đạt 13,1 tỷ USD, tương đương cùng kỳ năm 2022. Cam kết và giải ngân FDI ổn định phản ánh sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài đối với các cơ hội kinh doanh tại Việt Nam bất chấp những bất ổn toàn cầu.

Lạm phát chung tăng trong khi lạm phát lõi tiếp tục giảm nhẹ

Trong tháng 8, lạm phát tính theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng từ mức 2,1% (so cùng kỳ) trong tháng 7 lên 3,0%, đảo ngược xu hướng giảm trong 6 tháng liền kề trước đó. Lương thực, thực phẩm cũng như nhà ở và vật liệu xây dựng là những tác nhân chính gây ra lạm phát CPI, tăng lần lượt 2,3% và 7,1%. Dịch vụ giáo dục cũng tăng 5,1% trước thềm năm học mới vào tháng 9.

bcajksc.jpg

Mặt khác, tác động giảm phát của chi phí vận tải giảm đã mờ dần. Lạm phát cơ bản, không bao gồm thực phẩm, năng lượng và các mặt hàng được kiểm soát giá (dịch vụ giáo dục và y tế), giảm nhẹ từ 4,1% (so cùng kỳ) trong tháng 7 xuống 4,0%.

Tín dụng tăng trưởng nh

Tín dụng tăng trưởng từ mức 9,0% trong tháng 7 lên 9,4% trong tháng 8, nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với mức đã ghi nhận trong giai đoạn trước đại dịch và vẫn dưới mức trần tín dụng định hướng hàng năm do Ngân hàng Nhà nước đặt ra cho năm 2023 là 14%.

dalca.jpg

Tăng trưởng tín dụng thấp, bất chấp 4 đợt cắt giảm lãi suất chính sách và lãi suất tiền gửi/cho vay của NHNN trong giai đoạn từ tháng 3 đến tháng 6 và thanh khoản thị trường dồi dào, phản ánh đầu tư khu vực tư nhân tiếp tục yếu, bao gồm cả lĩnh vực bất động sản và niềm tin của nhà đầu tư yếu.

Chi tiêu công tiếp tục tăng nhanh

Chi tiêu công tiếp tục tăng nhanh, tăng 22,1% trong tháng 8, tương đương với mức tăng trong các tháng 5, 6, 7 do giải ngân đầu tư công tăng. Lũy kế giải ngân đầu tư công 8 tháng đầu năm đạt 39,6% dự toán ngân sách năm – tăng 40,3% so với cùng kỳ năm 2022.

Tính đến cuối tháng 8/2023, thu ngân sách lũy kế đạt 44,5 tỷ USD (70% dự toán ngân sách hàng năm) – giảm 9,1% so với cuối tháng 8 năm 2022. Trong khi đó, lũy kế thực hiện ngân sách đạt 46,8 tỷ USD (52,1% so với dự toán ngân sách), tăng 15,2% so với cùng kỳ năm 2022.

bdjabsjb.jpg

Tính đến cuối tháng 8, Kho bạc Nhà nước đã phát hành khoảng 230,5 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, tương đương 57,6% tổng vốn vay dự kiến cho năm 2023. Khoảng 83% lượng trái phiếu phát hành có kỳ hạn dài 10 năm và 15 năm, với lãi suất danh nghĩa lần lượt là 2,36% và 2,59%.

Đánh giá và tình hình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam trong tháng 8, WB cho biêt, trong khi sự sụt giảm trong hoạt động xuất khẩu có thể đã chạm đáy và tiêu dùng trong nước vẫn ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn tiếp tục chậm.

“Những biến động tăng giá gần đây của giá năng lượng toàn cầu đòi hỏi phải có sự giám sát chặt chẽ về lạm phát CPI. Điều này cũng có thể ngăn cản Ngân hàng Nhà nước nới lỏng hơn nữa chính sách tiền tệ”, WB lưu ý.

Báo cáo cũng nêu rõ, việc tiếp tục duy trì trạng thái thắt chặt các điều kiện tài chính toàn cầu cho thấy cần đảm bảo việc quản lý ngoại hối linh hoạt để ứng phó với các điều kiện bên ngoài. Việc tăng tốc hơn nữa giải ngân đầu tư công có thể hỗ trợ tổng cầu và tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn, đồng thời tập trung vào cơ sở hạ tầng xanh và có khả năng phục hồi ưu tiên, cũng như đầu tư vào nguồn nhân lực sẽ giúp thúc đẩy phát triển kinh tế dài hạn.

Q.L