Xã hội hóa để huy động nguồn lực phát triển giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng
Trong những năm qua, ngoài nguồn vốn từ ngân sách nhà nước chiếm khoảng 17%, còn lại 83% là nguồn vốn xã hội hóa từ huy động đầu tư, đóng góp, hỗ trợ của các tổ chức, DN, cá nhân để phát triển rừng…
Thông tin tại Tọa đàm “Xã hội hoá trồng rừng – Vì một Việt Nam xanh hơn” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Bộ NN&PTNT) tổ chức mới đây cho biết, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, chương trình, đề án trồng rừng, phục hồi rừng và trồng cây phân tán. Những nỗ lực này đã góp phần nâng tỷ lệ che phủ rừng từ 40,84% năm 2015 lên 42,02% vào năm 2022; duy trì, phát triển hơn 14,7 triệu ha rừng, trong đó có 4,6 triệu ha rừng trồng; nhờ đó đã tạo ra nguồn nguyên liệu ổn định cho ngành công nghiệp chế biến, xuất khẩu đồ gỗ và lâm sản; góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập, cải thiện sinh kế cho những người làm nghề rừng, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
“Để đạt được những kết quả trên, công tác phát triển rừng đã có sự nỗ lực, chung tay của các cấp, các ngành, các cơ quan từ trung ương tới địa phương và toàn xã hội…”, ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp đánh giá.
Từ 2021 đến nay, cả nước trồng khoảng 696 nghìn ha rừng trồng tập trung (năm 2021: 245 nghìn ha; năm 2022: 253 nghìn ha; 10 tháng đầu năm 2023: 198 nghìn ha); trồng khoảng 277 triệu cây phân tán (năm 2021: 97 triệu cây; năm 2022: 110 triệu cây; 10 tháng đầu năm 2023: 71 triệu cây). Bên cạnh đó, diện tích rừng trồng sản xuất kinh doanh gỗ lớn là là 445.480 ha; diện tích chuyển hóa rừng trồng sản xuất kinh doanh gỗ lớn là 63.341 ha; tổng diện tích rừng đã được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững là: 449.240 ha.
Theo lãnh đạo Cục Lâm nghiệp, để đạt được những kết quả trên, trong nhiều năm qua, nhà nước đã khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển rừng, thông qua nhiều chính sách quan trọng như giao đất giao rừng, các chính sách đặc thù khuyến khích đầu tư, phát triển hợp tác, liên kết sản xuất, hỗ trợ vốn vay ưu đãi,… Từ đó đã huy động tổng lực, đa dạng các nguồn vốn để thực hiện, trong đó nguồn vốn từ ngân sách nhà nước chiếm khoảng 17%, còn lại 83% là nguồn vốn xã hội hóa từ huy động đầu tư, đóng góp, hỗ trợ của các tổ chức, DN, cá nhân.
Việc hình thành và tổ chức hoạt động hiệu quả hệ thống Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng từ trung ương đến địa phương cũng là một điển hình thành công của ngành lâm nghiệp trong việc huy động hiệu quả, bền vững nguồn lực xã hội cho quản lý, bảo vệ rừng và phát triển rừng, với tổng nguồn thu là trên 23.000 tỷ đồng trong giai đoạn từ 2011 – 2022. Các nguồn thu dịch vụ môi trường rừng sẽ tiếp tục được mở rộng trong thời gian tới, trước mắt là dịch vụ các bon rừng, kinh doanh tín chỉ các bon rừng.
Tại Tọa đàm, các diễn giả, đã đưa ra các nhận định, quan điểm liên quan đến công tác xã hội hoá trồng rừng, động lực để các thành phần kinh tế trong và ngoài nhà nước, các tổ chức xã hội tích cực tham gia đầu tư trồng rừng cũng như những khó khăn, thách thức đối với việc huy động nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia hoạt động trồng rừng, kinh doanh rừng, đặc biệt là trồng rừng gỗ lớn và rừng có chứng chỉ quản lý bền vững, phát huy các giá trị đa dụng của rừng,…
Hiện Bộ NN&PTNT, trực tiếp là Cục Lâm nghiệp, được giao xây dựng Đề án Phát triển giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Dự kiến trong tháng 11/2023, Bộ sẽ hoàn thiện và trình Chính phủ. Với mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý, tạo việc làm, tăng thu nhập, ổn định, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, đề án nêu ra 6 giải pháp trọng tâm. Đó là: Cơ chế chính sách; Quản lý rừng và phát triển vung nguyên liệu; Khoa học và công nghệ; Tổ chức sản xuất; Đào tạo, tập huấn, tuyên truyền nâng cao năng lực; Hợp tác quốc tế…
Cần đối giữa sứ mệnh giữ rừng và tạo ra giá trị từ rừng
Chia sẻ tại Tọa đàm, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan cho rằng, cần có một tư duy mới về rừng trong bối cảnh phải cân đối giữa sứ mệnh giữ rừng và tạo ra giá trị từ rừng.
”Quan điểm thuê người dân giữ rừng cần chuyển đổi sang làm thế nào để tạo ra được nhiều việc làm, nhiều sinh kế dưới tán rừng thì mới bền vững, hiệu quả và đó là lý do vì sao định nghĩa “rừng đa dụng” ra đời…”, Bộ trưởng chia sẻ.
Theo Bộ trưởng, giá trị của rừng đem lại hiện vẫn chưa xứng đáng với tiềm năng của rừng. “Nếu chúng ta khám phá được những giá trị to lớn hơn, thì ngay cả các DN cũng sẽ vào cuộc, cùng người dân và cơ quan chức năng để bảo vệ và phát triển rừng”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nói.
Bộ trưởng đồng thời nhấn mạnh, mở cửa rừng là mở một tư duy mới về rừng và tạo ra không gian giá trị nhiều hơn cho rừng. “Rừng không chỉ là kinh tế, giá trị môi trường mà còn giá trị về cộng đồng, giá trị về văn hóa, tín ngưỡng ngàn đời của bà con”, người đứng đầu Bộ NN&PTNT phân tích và nhấn mạnh thêm, khi bà con hiểu được rằng, tán rừng mất đi là giá trị dưới tán rừng cũng mất đi thì ai cũng tự giác giữ rừng.
Với các DN, Bộ trưởng gợi ý, các DN cần có thêm sự thay đổi, thay vì quan hệ mua - bán với người trồng rừng, có lẽ cần ngồi lại với nhau để xem đó là sự đầu tư, hợp tác với người dân. Cụ thể, các DN có thể phối hợp với người dân, tạo nên một chuỗi liên kết, hình thành các hợp tác xã, tạo ra sự ưu tiên cho những cộng đồng, tạo ra không gian để bà con có thể giữ rừng một cách tự nguyện và hiệu quả.
"Nhìn rừng không chỉ có rừng, không chỉ có gỗ mà còn là văn hóa, là tín ngưỡng và đó là những giá trị to lớn hơn rất nhiều. Qua đó, không chỉ người dân mà các lực lượng chức năng đang làm công tác giữ rừng cũng yên tâm hơn để hoàn thành nhiệm vụ…”, Bộ trưởng nhấn mạnh.