Cần phải chấp nhận chuỗi kinh doanh khí điện LNG hoạt động theo cơ chế thị trường
Theo các chuyên gia, để hiện thực hóa mục tiêu phát triển điện khí LNG theo Quy hoạch Điện VIII, vấn đề quan trọng nhất là phải chấp nhận chuỗi kinh doanh khí điện LNG hoạt động theo cơ chế thị trường và các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ thực hiện việc giám sát và hậu kiểm mọi quá trình hoạt động của chuỗi.
Nhiều khó khăn…
Thông tin tại Diễn đàn “Hiện thực hóa mục tiêu phát triển Điện khí LNG theo Quy hoạch Điện VIII” được tổ chức chiều 7/12, ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, Quy hoạch Điện (QHĐ) VIII đưa ra mục tiêu đưa 13 nhà máy điện khí LNG vào vận hành; chuyển đổi 18 GW điện than vào năm 2030 được thay thế bằng 14 GW điện khí LNG và 12-15 GW nguồn năng lượng tái tạo. Cơ cấu nguồn nhiệt điện khí trong nước và khí hóa lỏng đến năm 2030 sẽ đạt 37.330 MW, tương đương 24,8% tổng công suất nguồn điện, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu nguồn điện.
Phó Chủ tịch VCCI đánh giá, Việt Nam là quốc gia có nhiều cơ hội thuận lợi cho điện khí LNG. Đây là lĩnh vực thu hút sự quan tâm của nhiều doanh nghiệp (DN) và các nhà đầu tư (NĐT), góp phần thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, hứa hẹn sự phát triển mạnh mẽ thị trường điện khí LNG.
Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội, phát triển điện khí LNG tại Việt Nam đang gặp phải nhiều khó khăn trong hoạch định chính sách, đầu tư, xây dựng, quản lý vận hành...
Thứ nhất, hiện nay chúng ta phải nhập khẩu hoàn toàn nhiên liệu này. Hoạt động nhập khẩu cần tuân thủ các thông lệ mua bán LNG quốc tế, trong khi Việt Nam chưa có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan đến thiết kế, xây dựng và vận hành các cơ sở hạ tầng phục vụ nhập khẩu cũng như chưa xây dựng hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý cho các dự án LNG.
Thứ hai, chúng ta cũng chưa có kinh nghiệm trong phát triển các chuỗi dự án điện - khí LNG; xây dựng, vận hành các dự án kho cảng LNG có yêu cầu cao về kỹ thuật, tiêu chuẩn an toàn nghiêm ngặt với vốn đầu tư lớn.
Thứ ba, về mặt quy hoạch, các quy hoạch ngành, quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của các địa phương chưa phù hợp với Quy hoạch Điện VIII có thể làm kéo dài thời gian hoàn thành thủ tục cấp phép đầu tư, tiến độ xây dựng dự án…
Thứ tư, về phía các DN, đầu tư cho dự án điện khí LNG cần nguồn lực lớn, công nghệ hiện đại nên việc thu xếp vốn cho dự án gặp nhiều thách thức, cần phải đáp ứng yêu cầu của các tổ chức tài chính về các điều kiện bảo lãnh, cam kết để dự án đầu tư có hiệu quả. Trong khi hiện nay, việc phát triển các dự án phải tuân thủ các quy trình đầu tư thông thường cũng như chưa có cơ chế ưu đãi, khuyến khích về thuế, phí để thu hút các NĐT tham gia phát triển loại hình nguồn điện mới.
“Chúng ta đang bước vào tháng cuối năm 2023. Từ nay đến mốc 2030 để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra Quy hoạch Điện VIII không còn nhiều. Để các dự án khí hóa lỏng triển khai kịp tiến độ rất cần sự chung tay các cấp, các ngành trong việc tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trên…”- đại diện VCCI đề nghị
Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật theo hướng nào?
Theo PGS.TS Ngô Trí Long - chuyên gia kinh tế, khuôn khổ pháp lý hiện hành cho các dự án LNG cho điện ở Việt Nam vẫn chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Việc nhập khẩu LNG phải theo các thông lệ mua bán LNG quốc tế.
Trong khi Việt Nam hiện chưa có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan đến thiết kế, xây dựng và vận hành các cơ sở hạ tầng phục vụ nhập khẩu. Cơ chế giá điện sử dụng nhiên liệu LNG chưa có quy định đầy đủ.
Vấn đề kho chứa cũng là thách thức lớn. Hiện nước ta mới chỉ có duy nhất 1 kho được xây dựng đưa vào vận hành tại Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngoài ra, còn nhiều kho chứa LNG đang trong giai đoạn lập kế hoạch trên toàn quốc….
Tại Diễn đàn, các chuyên gia trong ngành cùng với các DN, NĐT đã đưa ra các ý kiến và giải pháp nhằm tháo gỡ những nút thắt để hiện thực hóa mục tiêu phát triển Điện khí LNG theo QHĐ VIII.
Theo đó, cần mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ điện khí LNG theo sát với mục tiêu cung cấp khí điện LNG trong QHĐ VIII. Đó là, xây dựng tập trung, đồng bộ các khu công nghiệp/nhà máy có quy mô tiêu thụ điện đủ lớn cùng với việc triển khai các dự án kho cảng và nhà máy điện khí LNG.
Đây cũng là chính sách giúp thu hút và khuyến khích các NĐT các loại hình khu công nghiệp/nhà máy cam kết tiêu thụ điện dài hạn cùng với chuỗi nhà máy điện và kho cảng LNG. Thêm vào đó, chúng ta cần có thêm các chính sách kích cầu về điện, kích thích sản xuất và kích thích tiêu dùng song song với khuyến khích tiết kiệm điện.
TS. Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu Khí Việt Nam nhấn mạnh, cần sớm sửa đổi các Bộ Luật Điện lực, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Thuế và các Bộ Luật, Nghị định hướng dẫn liên quan.
“Trước tiên và quan trọng nhất đó là cần phải chấp nhận chuỗi kinh doanh khí điện LNG hoạt động theo cơ chế thị trường và các cơ quan quản lý nhà nước sẽ thực hiện việc giám sát và hậu kiểm mọi quá trình hoạt động của chuỗi…”, ông Thập đề nghị.
Tiếp đó, cho phép các chủ thể các nhà máy điện khí được quyền đàm phán bán điện một cách cạnh tranh giữa EVN và các hộ tiêu thụ điện. Tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế sẽ giúp có cơ hội để xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách năng lượng nói chung và điện khí LNG nói riêng; xây dựng và hoàn thiện mô hình quản trị đầu tư xây dựng, vận hành, khai thác sử dụng hiệu quả tối ưu điện khí LNG; lựa chọn được các NĐT có tiềm lực về công nghệ, tài chính và kinh nghiệm triển khai…
Theo chuyên gia Lã Hồng Kỳ - Văn phòng Ban chỉ đạo dự án điện quốc gia, tại Việt Nam, phát triển điện khí LNG theo QHĐ VIII trong giai đoạn 2030, các nhà máy điện thuộc chuỗi điện khí Cá Voi Xanh lô B là nguồn điện chính cung cấp bổ sung cho lưới điện quốc gia ở khu vực miền Trung và miền Nam; ở miền Bắc bổ sung 4 dự án LNG với tổng công suất khoảng 6.000 MW để chạy nền và đảm bảo truyền tải đường dây 500kW. Danh mục nhà máy điện khí lô B gồm các cụm nhà máy Ô Môn với công suất hơn 3.100 MW.
Theo đánh giá đến cuối năm 2026 có dòng khí đầu tiên nhưng hiện đang có một số vướng mắc cần tháo gỡ để có quyết định đầu tư, trong đó, các hợp đồng mua bán điện đang trong quá trình đàm phán.
Với chuỗi dự án sử dụng khí Cá Voi Xanh gồm: Nhà máy Dung Quất 1, Dung Quất 2, Dung Quất 3; miền Trung 1, miền Trung 2, với tổng công suất 3.750 KW, hiện nay tiến độ đang chậm và khả năng cuối năm 2028 có dòng khí đầu tiên.
Đối với 11 dự án LNG nhập khẩu với tổng công suất 17.900 MW theo QHĐ VII điều chỉnh và 8 nhà máy theo QHĐ VIII bổ sung, hiện nay danh mục tiến độ các nguồn điện quan trọng, có 3 dự án nhà máy điện khí là Nhơn Trạch 3,4, Hiệp Phước giai đoạn 1 sẽ phát điện trong giai đoạn 2021 - 2025 nhưng thực tế đang gặp khó.