Vấn đề - Nhận định

Những xu hướng lớn định hình tương lai của Việt Nam

Hà Linh 22/02/2024 - 11:10

Để đạt mục tiêu đến năm 2045 Việt Nam trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao thì trong 20 năm tới tăng trưởng kinh tế phải đạt tốc độ bình quân 7%/năm. Đâu là điều kiện để Việt Nam tăng trưởng và tránh được bẫy thu nhập trung bình, tiếp tục phát triển bền vững trong hai thập niên tới?

Đây là nội dung được đặt ra tại Tọa đàm Đối thoại Chính sách quý I/2024 với chủ đề “30 năm phát triển của Việt Nam: Nhìn lại quá khứ và ứng phó với thách thức mới” do Trường đại học Kinh tế quốc dân (NEU) tổ chức ngày 22/2/2024.

z5181980889578_d74ffe37e4c805fba56106d29ace3368.jpg
Quang cảnh tọa đàm

Tốc độ chậm lại của tăng trưởng đang tăng lên

Phát biểu đề dẫn tọa đàm, GS,TS. Phạm Hồng Chương, Hiệu trưởng NEU đánh giá, giai đoạn 2024 - 2030 là giai đoạn quyết định để Việt Nam chuyển mình theo tinh thần của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2021-2030. Đây là thời mốc quan trọng và mở ra nhiều cơ hội phát triển cho kinh tế nước, đặc biệt là dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0).

Theo đánh giá chung của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế, tăng trưởng mà Việt Nam có được trong thời gian qua phần lớn là do tác động của tự do hóa đúng thời điểm, lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào…

“Liệu Việt Nam có thể tiếp tục tăng trưởng nhanh và bền vững, dần bước vào nhóm các nước có thu nhập cao như Hàn Quốc và Đài Loan đã làm được trong thời gian qua hay lại bước theo vết xe đổ của một số quốc gia lân cận như Thái Lan, Malaysia, Indonesia?”, GS.TS.Phạm Hồng Chương nêu vấn đề.

3 quốc gia được Hiệu trưởng Chương nói đến (Thái Lan, Malaysia, Indonesia) sau một thời gian dài vẫn loay hoay chưa thể thoát ra khỏi mức thu nhập trung bình hay rơi vào bẫy thu nhập trung bình là một câu hỏi lớn.

“Để quá trình phát triển không bị dừng ở ngưỡng thu nhập trung bình, ngay từ bây giờ Việt Nam cần có những định hướng chiến lược, những hành động cụ thể để duy trì được tốc độ tăng trưởng nhanh một cách bền vững và trở thành nước có thu nhập cao trong tương lai”, GS.TS.Phạm Hồng Chương nhấn mạnh.

Thực tiễn cho thấy, một số xu hướng lớn đang định hình tương lai của Việt Nam. Đó là sự phát triển mạnh mẽ của CMCN 4.0, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo mang đến cơ hội nâng cao khả năng cạnh tranh và tính bền vững về kinh tế, chất lượng sản phẩm, dịch vụ và quy trình sản xuất nhưng cũng đồng thời đặt ra nhiều thách thức to lớn như: Gia tăng thất nghiệp; vấn đề về hạ tầng; an toàn, an ninh thông tin; rủi ro về cạnh tranh và tụt hậu...

Ngoài ra, dân số Việt Nam đang già đi nhanh chóng, thương mại toàn cầu đang suy giảm và các doanh nghiệp phải tuân thủ các yêu cầu nghiêm ngặt hơn về môi trường và xã hội, suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu đang gia tăng… cũng đang là những vấn đề Việt Nam đang phải đối mặt.

Đáng lo ngại đó là tốc độ tăng trưởng đang chậm lại và tốc độ chậm lại tăng lên. “Tăng trưởng cũng chưa đủ nhanh để tạo ra những đột phá trong thực hiện tiến bộ xã hội. Chất lượng tăng trưởng cải thiện chậm làm giảm khả năng gia tăng thu nhập của nền kinh tế”, GS,TS. Ngô Thắng Lợi, Trường đại học Kinh tế quốc dân nêu quan điểm.

Cũng theo GS,TS. Ngô Thắng Lợi, hiệu ứng của tăng trưởng kinh tế đến thực hiện tiến bộ xã hội giảm dần. Tăng trưởng kinh tế chưa có tác động đồng thuận đến cải thiện các nhu cầu phi vật chất nên đã hạn chế đến phát triển con người. Ở các vùng chậm phát triển, mối quan hệ không đồng thuận giữa tăng trưởng với công bằng xã hội gay gắt hơn.

Kinh nghiệm và bài học thế giới cho thấy các quốc gia có thể đạt mức thu nhập trung bình nhờ tự do hóa, tư nhân hóa và hội nhập quốc tế, nhưng đạt mức thu nhập cao hơn đòi hỏi nỗ lực chính sách để kích thích sự năng động của khu vực tư nhân, chứ không phải tự do kinh doanh.

Trước những phân tích trên, các chuyên gia tham dự tọa đàm cho rằng, việc nhìn nhận, đánh giá lại các thành quả phát triển trong ba thập kỷ qua, cũng như phân tích những thách thức mới và khả năng ứng phó của Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng để tăng trưởng bền vững và đưa Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình cao trước năm 2030 và thu nhập cao trước năm 2045.

Nhưng Việt Nam cần nhiều hơn thế

Nhìn lại sự phát triển của Việt Nam, GS. Trần Văn Thọ (Đại học Waseda – Nhật Bản) chỉ ra những thành tựu lớn về tăng trưởng thu nhập nhanh và các thành tự xã về xóa đói giảm nghèo, giáo dục, giảm tỷ lệ tử vong… Bên cạnh đó là những thành công về chuyển đổi cơ cấu kinh tế và thành công của chính sách thu hút FDI, chính sách thương mại và sự trỗi dậy của một số doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao như: Vin Group/VinFast, Viettel, FPT…

“Nhưng Việt Nam cần nhiều hơn thế”, GS. Trần Văn Thọ nói. Theo ông, từ thập niên 1990 Việt Nam đã cho thấy một thành quả phát triển đáng kể nhưng nền kinh tế chưa có được thời kỳ phát triển cao (tăng trưởng mỗi năm phải đạt 10% và tốc độ này phải được duy trì trong 10 năm). Đã vậy, ở trong giai đoạn dân số vàng mức độ công nghiệp hóa của Việt Nam rất thấp. Khu vực phi chính thức còn lớn và tỷ lệ doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ quá nhiều.

Còn theo ông Kenichi Ohno, Giáo sư danh dự, Viện nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản (GRIPS), vấn đề của Việt Nam là tăng trưởng đang chậm lại ở mức thu nhập trung bình (quá sớm) thay vì tăng tốc và phụ thuộc nhiều vào FDI để xuất khẩu, công nghệ và chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của doanh nghiệp Việt Nam còn mờ nhạt. Hệ thống giao thông hiện đại (đặc biệt là mạng lưới đường sắt đô thị) chậm phát triển. Bên cạnh đó là các vấn đề về môi trường và tài nguyên khác...

Đặc biệt, đang xuất hiện nhiều biểu hiện về bẫy thu nhập trung bình của Việt Nam, như: Tăng trưởng chậm lại ở mức thu nhập trung bình; thiếu kỹ sư, nhà đổi mới và nhà khoa học có tay nghề cao; năng suất lao động ở mức trung bình; phụ thuộc nhiều vào FDI…

“Để đối phó với những vấn đề này, Việt Nam cần nâng cao năng lực lãnh đạo quốc gia và các nhà kỹ trị kinh tế. Cần tích cực thúc đẩy công nghệ và đổi mới với ít quan liêu hơn”, GS. Kenichi Ohno khuyến nghị.

Khuyến nghị về chiến lược và chính sách để phát triển đạt mức thu nhập cao theo các mục tiêu đề ra, GS. Trần Văn Thọ gợi ý 5 chính sách, gồm: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu để tăng năng suất; chính thức hóa khu vực phi chính thức và tăng quy mô doanh nghiệp để đẩy mạnh tích lũy tư bản và cách tân công nghệ (đổi mới sáng tạo); cải cách và phát triển thị trường các yếu tố sản xuất để việc phân bổ nguồn lực có hiệu quả và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu; chú trọng cung cấp lao động có kỹ năng và khuyến khích hoạt động nghiên cứu và phát triển để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu; nền kinh tế; tăng cường năng lực đổi mới sáng tạo.

Theo các chuyên gia, trong khoảng một thập niên tới, Việt Nam cần mở rộng công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu công nghiệp và cải cách thể chế để phân bổ hiệu suất các nguồn lực là các yếu tố tăng năng suất. Đồng thời, cần chuẩn bị thời đại tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo cho thập niên 2030 và xa hơn. Các chuyên gia cũng nhấn mạnh: “Con đường lý tưởng cho tương lai là liên tục chuyển cơ cấu lợi thế so sánh lên cao hơn”.

Hà Linh