Ngân hàng Xanh và Phát triển bền vững

Lối nào cho “tín dụng xanh”?

ThS. Trần Trọng Triết 07/05/2024 13:00

Tín dụng cho vay những lĩnh vực thân thiện với môi trường là định hướng mà Ngân hàng Nhà nước đặt ra cho các ngân hàng thương mại trong việc thực hiện xây dựng khung khoản vay bền vững cũng như quy trình thẩm định tín dụng xanh.

mo-hinh-san-xuat-huu-co..jpg
Lối nào cho “tín dụng xanh”?

Đáng chú ý, là một quốc gia đang phát triển với tốc độ đô thị hóa nhanh, nhu cầu sử dụng năng lượng ngày càng tăng, đồng thời phải đối mặt với những áp lực lớn từ thiên tai, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu, Việt Nam cần lượng vốn lớn đầu tư vào các lĩnh vực xanh, như năng lượng tái tạo, chuyển đổi năng lượng, xử lý chất thải…

Thống kê từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy, bình quân 7 năm qua (2017 - 2023), tín dụng xanh tăng 22%/năm nhưng mới đạt gần 621.000 tỷ đồng, chỉ chiếm 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế.

Trong số 12 lĩnh vực xanh được Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn các tổ chức tín dụng cho vay, dư nợ tín dụng tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm gần 45%) và nông nghiệp xanh (hơn 30%).

Vấn đề lãi suất cho vay tín dụng xanh. Tuy lãi suất cho vay khá ưu đãi so với mặt bằng chung thị trường, song vẫn khá cao so với khả năng chịu đựng của doanh nghiệp, bởi đầu tư chuyển đổi công nghệ xanh cần chi phí lớn, thời gian thu hồi vốn dài.

Thời gian qua, các ngân hàng rất tích cực huy động nguồn vốn ưu đãi từ quốc tế để tài trợ vốn cho các “dự án xanh”. Dù vậy, muốn lãi vay “tín dụng xanh” thấp như kỳ vọng của doanh nghiệp (3-4%/năm), cần có thêm sự hỗ trợ của Chính phủ.

Ngoài ra, để thúc đẩy “tín dụng xanh” cũng cần sự đổi mới về cơ chế, hành lang pháp lý, cũng như các giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường carbon. Số lượng “dự án xanh” của Việt Nam còn khiêm tốn là do các chính sách khuyến khích “kinh tế xanh” chưa đủ hấp dẫn để tạo động lực cho doanh nghiệp phát triển dự án.

Một trong những khó khăn lớn nhất của ngành Ngân hàng hiện nay trong thúc đẩy “tín dụng xanh” là chưa có danh mục phân loại “xanh quốc gia”. Điều này rất khó trong các ngân hàng xác định định mức, quy mô đầu tư, xây dựng và triển khai các chính sách, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phù hợp.

Phía ngân hàng cũng còn ngại cho vay “dự án xanh” do quy mô lớn, thời hạn cho vay dài, có thể gặp rủi ro chính sách (ví dụ cho vay năng lượng tái tạo thời gian qua), thiếu kinh nghiệm thẩm định và phê duyệt “dự án xanh”… Bên cạnh đó, các “dự án xanh” cần vốn dài hạn. Vì vậy, nên khuyến khích doanh nghiệp phát hành “trái phiếu xanh”, thay vì chỉ dựa vào tín dụng ngân hàng. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng chưa có cơ chế khuyến khích các ngân hàng cho vay lĩnh vực này.

Nhằm góp phần thúc đẩy việc hấp thụ vốn tín dụng xanh, các cơ quan liên quan cần rà soát, hoàn thiện hành lang pháp lý, sớm ban hành Danh mục Phân loại xanh làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh.

Đồng thời, xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển xanh của từng ngành, lĩnh vực một cách đồng bộ, nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh, phát triển thị trường tín chỉ carbon...

Bên cạnh đó, tiếp tục huy động các nguồn lực để thực hiện chính sách tín dụng xanh tại Việt Nam.

Được biết, ở các nước, nguồn “tài chính xanh” phát triển khá đồng đều (tín dụng xanh, trái phiếu xanh…), trong khi ở Việt Nam, “tài chính xanh” chủ yếu tập trung vào tín dụng. Số lô “trái phiếu xanh” phát hành thành công còn khiêm tốn.

Xác định mục tiêu hướng tới xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường và quyết tâm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh, quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng, Ngân hàng Nhà nước đã có đề xuất với Chính phủ các giải pháp sau:

Thứ nhất, cơ chế và khung khổ pháp lý cho việc tạo nguồn và giải ngân vốn “tín dụng xanh” còn chưa hoàn thiện. Cụ thể, pháp luật hiện hành chưa có quy định đầy đủ về các sản phẩm tín dụng phục vụ “tăng trưởng xanh”. Cơ chế ưu đãi và khuyến khích của Chính phủ, các bộ, ngành đối với “tín dụng xanh” còn chưa rõ ràng.

Thứ hai, việc đầu tư vào các lĩnh vực xanh tại Việt Nam hiện nay thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, rủi ro cao, nên rất cần các ưu đãi về thời hạn và chi phí vốn vay. Trong khi đó, nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng thường là ngắn hạn, huy động theo chi phí vốn thương mại trên thị trường, nên có chi phí cao, không đáp ứng được nhu cầu đầu tư.

Thứ ba, nhận thức của người vay, của nông dân... về “tín dụng xanh” còn hạn chế, sản xuất mang tính lợi ích trước mắt, bỏ qua các quy chuẩn về hàng hoá, môi trường.

Thứ tư, các ngân hàng còn thiếu kinh nghiệm trong thẩm định, đánh giá hiệu quả của dự án, quản lý rủi ro… trong lĩnh vực này.

ThS. Trần Trọng Triết