Vấn đề - Nhận định

Động lực cho tăng trưởng tín dụng bền vững

Đoàn Hằng {Ngày xuất bản}

Với áp lực từ tỷ lệ tín dụng/GDP đang ở mức cao, giới chuyên môn kỳ vọng các chính sách như: cơ chế điều hòa giá nhà đất cho phù hợp với mức thu nhập của người dân, gói tín dụng cho vay nhà ở xã hội, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở Luật Các tổ chức tín dụng 2024... sẽ góp phần tạo động lực cho tăng trưởng tín dụng bền vững trong thời gian tới.

Mục tiêu tăng trưởng tín dụng 14 – 15%/năm là thách thức

Trong báo cáo về ngành Ngân hàng vừa công bố, CTCK VPBankS nhận định, tăng trưởng tín dụng đã đạt mục tiêu trong nửa đầu năm 2024. Cụ thể, 6 tháng đầu năm 2024, tăng trưởng tín dụng đạt 6,1%, tương đương 41% kế hoạch đề ra (tăng 15%) và dự phóng của VPBankS (14,8%). Do vậy, để hoàn thành mục tiêu để ra, trong nửa cuối năm 2024, tín dụng cần tăng thêm 8,73%.

td.jpg

Với diễn biến kinh tế tài chính trong nước và thế giới, các chuyên gia VPBankS dự báo: “mục tiêu tăng trưởng tín dụng dự phóng năm nay có thể đạt được khi kỳ vọng vào mùa tiêu dùng, sản xuất kinh doanh vào nửa cuối năm và kỳ vọng thêm vào việc Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ (FED) hạ lãi suất, qua đó hỗ trợ cho chính sách tiền tệ tại Việt Nam”.

Dù dự báo sẽ đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng, tuy nhiên, các chuyên gia của VPBankS cũng nhận định rằng, mức tăng trưởng tín dụng từ 14 – 15%/năm là thách thức, bởi tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam đang ở mức quá cao.

Theo thống kê, năm 2015, tỷ lệ dư nợ tín dụng trên GDP của Việt Nam là 89,7%, năm 2016 là 97,6%, năm 2017 là 103,5%, năm 2018 là 102,9%, năm 2019 là 110,2%, năm 2020 là 114,3%, năm 2021 là 113,2%, năm 2022 là hơn 125%. Đến cuối năm 2023, tỷ lệ tín dụng/GDP tiếp tục tăng lên khoảng 133%, tiềm ẩn rủi ro an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ.

Vấn đề này đã được Ngân hàng Thế giới (WB) cảnh báo. Theo đó, WB từng khuyến nghị đối với Việt Nam và cho rằng cần kéo giảm tỷ lệ tín dụng/GDP xuống, giảm sự phụ thuộc tăng trưởng với tín dụng của nền kinh tế, đồng thời đảm bảo sức khỏe của hệ thống tài chính.

Các chuyên gia của VPBankS cho rằng, khi tăng trưởng tín dụng được coi là một tiêu chí để đánh giá ngân hàng làm cơ sở giao room tín dụng cho năm tiếp theo cũng sẽ gián tiếp khiến các ngân hàng cố gắng đẩy hết room tín dụng.

“Khi tăng trưởng phải thỏa hiệp bằng chất lượng tài sản thì mức tăng trưởng đó không bền vững, có thể dẫn đến bất ổn kinh tế, áp lực lạm phát cao và các vấn đề về nợ xấu tồn đọng khó xử lý hơn”, các chuyên gia của VPBankS nhấn mạnh.

mttd.jpg

Cũng theo VPBankS, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam đang tiệm cận tới mức của các đất nước phát triển như Úc, Trung Quốc, Thái Lan, và còn đang cao hơn rất nhiều so với các nước có nền kinh tế tương đồng như Indonesia hay Philippines.

Kỳ vọng các chính sách hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững hơn

Vậy, đâu sẽ là động lực cho tăng trưởng bền vững? Theo các chuyên gia VPBankS, động lực tăng trưởng tín dụng bền vững chính là từ nhu cầu vốn của người dân. Trong đó, chủ yếu phần lớn tín dụng được thúc đẩy bởi ngành bất động sản (BĐS).

Số liệu được cung cấp trong báo cáo cho biết, tính đến cuối quý II/2024, dư nợ cho vay BĐS đạt 3,083 triệu tỷ, tăng 6,8% so với đầu năm, chiếm tỷ lệ 21,4% tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế.

dl-td.jpg

Bất động sản là một lĩnh vực hấp dẫn đối với hoạt động cho vay ngân hàng do nhu cầu cao và ổn định, cùng với tài sản thế chấp mạnh, giúp giảm rủi ro nợ xấu. Tuy nhiên, sự tăng trưởng của thị trường có thể không bền vững, gây ra rủi ro nếu giá trị tài sản giảm. Ngoài ra, các khoản vay bất động sản là dài hạn, có thể ràng buộc vốn và hạn chế khả năng theo đuổi các cơ hội sinh lời khác của ngân hàng. “Do nhu cầu vốn cho nhà ở là rất lớn nên còn rất nhiều dư địa cho vay cho ngành Ngân hàng, tuy nhiên, tiềm ẩn rủi ro nợ xấu gia tăng”, báo cáo viết.

Trong khi đó, dù lãi suất cho vay mua nhà đã giảm tích cực trong một năm qua nhưng do giá nhà vẫn neo ở mức cao, chưa có nhiều dấu hiệu chuyển biến tích cực.

Nhu cầu “an cư lập nghiệp”- có nhà ở vẫn là nhu cầu chủ yếu của người dân. Hiện nay, tỷ lệ giá nhà ở trên thu nhập của người dân Việt Nam đã tăng và đang ở mức khá cao so với các nước phát triển, thậm chí so với nước đang phát triển như Indonesia.

Theo Fidelity, đối với hầu hết khách hàng cá nhân và hộ gia đình, tỷ lệ này thường nên ở mức 3 - 5 lần. Tại Việt Nam tỷ lệ này đang gấp khoảng 4-5 lần so với tỷ lệ khuyến nghị.

VPBankS kỳ vọng các chính sách, cơ chế điều hòa giá nhà đất cho phù hợp với mức thu nhập của người dân và gói tín dụng 120.000 tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội... sẽ hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững hơn.

Số liệu thống kê cho thấy, đến đầu tháng 7/2024, tỷ lệ giải ngân của gói tín dụng 120.000 tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội mới đạt 1% (trong đó, số tiền giải ngân cho chủ đầu tư là khoảng 1.202 tỷ đồng tại 12 dự án, còn người mua nhà chỉ vay 32 tỷ đồng tại 5 dự án). Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ giải ngân khách hàng cá nhân thấp là do điều kiện mua nhà còn khắt khe, chưa có nhiều hộ đủ điều kiện.

Theo Hội Môi giới Bất động sản Việt Nam (VARS), mỗi gia đình phải có thu nhập ít nhất 35 - 40 triệu đồng/tháng mới đảm bảo việc chi trả nợ vay và chi phí sinh hoạt hàng tháng, song mức thu nhập này lại nằm ngoài điều kiện vay gói này (thu nhập một người dưới 15 triệu/tháng hoặc cả 2 vợ chồng dưới 30 triệu/tháng).

Với việc Luật Kinh doanh BĐS và Luật Nhà ở có hiệu lực, giới chuyên môn kỳ vọng tăng trưởng tín dụng sẽ an toàn, bền vững hơn khi các điều khoản tại luật hướng đến việc tạo thuận lợi cho người mua nhà, ví như: chủ đầu tư dự án BĐS chỉ được thu tiền đặt cọc không quá 5% giá bán, cho thuê mua nhà ở, công trình xây dựng hình thành trong tương lai; việc thanh toán được thực hiện nhiều lần, lần đầu không quá 30% giá trị hợp đồng bao gồm cả tiền đặt cọc…

dlfdi.jpg

Động lực tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế cũng sẽ đến từ BĐS Khu công nghiệp (KCN), hưởng lợi từ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và xuất nhập khẩu. VPBankS dự báo mảng cho vay KCN trong thời gian tới rất tiềm năng do quỹ đất KCN sẽ tiếp tục được bổ sung mạnh mẽ trong giai đoạn 2025 - 2030, với trọng tâm mở rộng là các khu vực được coi là trung tâm KCN, có khả năng thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước như Đông Nam Bộ, Đồng bằng Sông Hồng và Bắc Trung Bộ & Duyên hải miền Trung (QĐ 326/QĐ-TTg ngày 9/3/2022).

Hơn nữa, kể từ ngày 1/7, hệ số rủi ro tín dụng BĐS KCN giảm từ 200% xuống 160% (Thông tư số 22/2023/TT-NHNN). Cùng với đó, tín dụng khu chế xuất, KCN tăng 9,47%, cao hơn trung bình ngành BĐS ở 6,8% so với đầu năm. Mặc dù tỷ trọng dư nợ đối với lĩnh vực BĐS KCN còn thấp so với tổng dư nợ tín dụng bất động sản nói chung và lĩnh vực nhà ở nói riêng, nhưng tín dụng tăng đã phản ánh xu hướng phát triển của BĐS KCN. Do đó, các ngân hàng đã có chương trình riêng cho lĩnh vực BĐS KCN sẽ hưởng lợi từ xu hướng này.

Ngoài ra, những thay đổi trong Luật Các tổ chức tín dụng 2024 cũng sẽ thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, phát triển bền vững hệ thống ngân hàng, nâng cao tính minh bạch và phát triển tín dụng tiêu dùng.

Bên cạnh những thay đổi trong luật, Ngân hàng Nhà nước cũng ban hành nhiều thông tư hỗ trợ, ví như Thông tư 12/2024/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng. Theo đó, để thúc đẩy tín dụng, khách hàng vay vốn ngân hàng từ 100 triệu đồng trở xuống không phải cung cấp phương án sử dụng vốn khả thi. Các quy định này nhằm phù hợp với việc phát triển tín dụng tiêu dùng, góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng trong việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng với thủ tục đơn giản, qua đó hạn chế “tín dụng đen”.

Những thay đổi trong Luật Các tổ chức tín dụng 2024 hay những thông tư được Ngân hàng Nhà nước ban hành thời gian qua được kỳ vọng góp phần đảm bảo hoạt động tài chính của các TCTD phát triển lành mạnh, ổn định.

Đoàn Hằng