IMF giữ nguyên dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 ở mức 3,2%
Ngày 22/10, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố báo cáo cập nhật về triển vọng kinh tế toàn cầu với nhận định, GDP toàn cầu được kỳ vọng sẽ ổn định ở mức tăng thấp, với sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia và khu vực do khó khăn mang tính cơ cấu như dân số già hóa và năng suất thấp cản trở tăng trưởng tại nhiều quốc gia.
Giữ nguyên dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu ở mức thấp
Với mức tăng trưởng GDP toàn cầu 3,2% trong năm 2024-2025, dự báo lần này của IMF hầu như không thay đổi so với hai báo cáo gần đây (đưa ra vào tháng 4 và tháng 7 vừa qua).
Tuy nhiên, báo cáo lần này của IMF điều chỉnh nâng dự báo kinh tế Mỹ, bù đắp cho động thái hạ dự báo kinh tế những nước phát triển (AEs) khác, nhất là AEs chủ chốt tại châu Âu; nâng dự báo GDP tại các nước mới nổi châu Á, điều chỉnh giảm dự báo GDP tại Trung Đông, Trung Á và cận Sahara châu Phi.
Sau đà phục hồi nhờ tái mở cửa kinh tế vào năm 2022, GDP tại AEs tăng chậm trở lại trong năm 2023 và xu hướng này có thể kéo dài cho đến năm 2029 với tốc độ tăng trưởng hàng năm dao động quanh ngưỡng 1,7-1,8%.
Xu hướng này che giấu sự khác biệt về động lực tăng trưởng, khi tình trạng mất cân đối mang tính chu kỳ thuyên giảm dần và hoạt động kinh tế phục hồi theo tiềm năng tăng trưởng. Tại Mỹ, GDP được dự báo sẽ giảm tốc, tiệm cận với tiềm năng tăng trưởng vào năm 2029. Trong khi đó, hoạt động kinh tế của Vương quốc Anh và khu vực đồng euro được dự báo sẽ tăng tốc, thu hẹp mức độ chênh lệch về nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Tại Nhật Bản, chênh lệch so với tiềm năng tăng trưởng ở mức thấp, nên GDP được kỳ vọng sẽ tăng theo tiềm năng tăng trưởng.
Kinh tế Mỹ sẽ giảm tốc từ mức tăng trưởng 2,8% trong năm nay xuống mức tăng 2,5% trong năm 2025 khi chính sách tài khóa thắt chặt dần và thị trường lao động nguội lạnh sẽ kìm hãm chi tiêu dùng, sau đó sẽ giảm dần về mức tăng trưởng tiềm năng.
Sau khi chạm đáy vào năm 2023, GDP tại khu vực đồng euro sẽ phục hồi nhẹ lên mức tăng 0,8% trong năm nay nhờ xuất khẩu hàng hóa cải thiện, sau đó tiếp tục tăng 1,2% vào năm 2025, khi nhu cầu trong nước tăng cao. Trong đó, mức lương thực tế tăng cao sẽ thúc đẩy tiêu dùng, trong khi chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ từng bước hỗ trợ tăng đầu tư.
Tại Nhật Bản, GDP được dự báo sẽ giảm tốc xuống mức tăng trưởng 0,3% trong năm 2024, nguyên nhân là do những rối loạn ngắn hạn về nguồn cung trong ngành công nghiệp xe con và chương trình khuyến mại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong năm 2023 kết thúc. Sau đó, GDP sẽ tăng tốc lên mức tăng 1,1% vào năm 2025, do mức lương thực tế tăng cao sẽ thúc đẩy tiêu dùng tư nhân và tăng trưởng kinh tế.
Tại Vương quốc Anh, GDP sẽ tăng tốc lên mức tăng trưởng 1,1% trong năm nay và 1,5% trong năm 2025, khi lạm phát và lãi suất giảm dần sẽ hỗ trợ nhu cầu trong nước.
Tương tự như tình hình tại AEs, kinh tế EMDEs được kỳ vọng sẽ ổn định rõ rệt với mức tăng trưởng trung bình quanh tỷ lệ 4,2% trong hai năm tới đây, sau đó giảm dần xuống mức tăng trưởng 3,9% vào năm 2029.
Sau khi tăng 6,7% trong năm 2023, GDP tại các nước mới nổi châu Á sẽ giảm tốc xuống mức tăng 5,0% vào năm 2025, phản ánh xu hướng tăng trưởng tại Ấn Độ (giảm từ kết quả tăng 8,2% trong năm 2023 xuống mức tăng 7,0% trong năm 2024 và 6,5% trong năm 2025, do các gói hỗ trợ nhu cầu trong mùa Covid-19 cạn dần và GDP giảm dần về mức tăng trưởng tiềm năng), và xu hướng tăng trưởng chậm dần tại Trung Quốc.
Khái quát về triển vọng kinh tế toàn cầu (% so năm trước)
Thực tế và dự báo | Thay đổi (1) | Thay đổi (2) | |||||
2023 | 2024 | 2025 | 2024 | 2025 | 2024 | 2025 | |
GDP toàn cầu | 3,3 | 3,3 | 3,2 | 0,0 | -0,1 | 0,0 | 0,0 |
Các nước phát triển (AEs) | 1,7 | 1,7 | 1,8 | 0,1 | 0,0 | 0,1 | 0,0 |
Mỹ | 2,9 | 2,8 | 2,2 | 0,2 | 0,3 | 0,1 | 0,3 |
Khu vực đồng euro | 0,4 | 0,8 | 1,2 | -0,1 | -0,3 | 0,0 | -0,3 |
CHLB Đức | -0,3 | 0,0 | 0,8 | -0,2 | -0,5 | -0,2 | -0,5 |
CH Pháp | 1,1 | 1,1 | 1,1 | 0,2 | -0,2 | 0,4 | -0,3 |
Italy | 0,7 | 0,7 | 0,8 | 0,0 | -0,1 | 0,0 | 0,1 |
Tây Ban Nha | 2,7 | 2,9 | 2,1 | 0,5 | 0,0 | 1,0 | 0,0 |
Nhật Bản | 1,7 | 0,3 | 1,1 | -0,4 | 0,1 | -0,6 | 0,1 |
Vương quốc Anh | 0,3 | 1,1 | 1,5 | 0,4 | 0,0 | 0,6 | 0,0 |
Canada | 1,2 | 1,3 | 2,4 | 0,0 | 0,0 | 0,1 | 0,1 |
Những AEs khác (3) | 1,8 | 2,1 | 2,2 | 0,1 | 0,0 | 0,1 | -0,2 |
EMDEs | 4,4 | 4,2 | 4,2 | 0,0 | -0,1 | 0,1 | 0,0 |
EMDEs châu Á | 5,7 | 5,3 | 5,0 | -0,1 | -0,1 | 0,1 | 0,1 |
Trung Quốc | 5,2 | 4,8 | 4,5 | -0,2 | 0,0 | 0,2 | 0,4 |
Ấn Độ | 8,2 | 7,0 | 6,5 | 0,0 | 0,0 | 0,2 | 0,0 |
EMDEs châu Âu | 3,3 | 3,2 | 2,2 | 0,0 | -0,3 | 0,1 | -0,6 |
CHLB Nga | 3,6 | 3,6 | 1,3 | 0,4 | -0,2 | 0,4 | -0,5 |
Mỹ Latinh và Caribê | 2,2 | 2,1 | 2,5 | 0,3 | -0,2 | 0,2 | 0,0 |
Brazil | 2,9 | 3,0 | 2,2 | 0,9 | -0,2 | 0,8 | 0,1 |
Mêhicô | 3,2 | 1,5 | 1,3 | -0,7 | -0,3 | -0,9 | -0,1 |
Trung Đông và Trung Á | 2,1 | 2,4 | 3,9 | 0,0 | 0,0 | -0,4 | -0,3 |
Arập Xê út | -0,8 | 1,5 | 4,6 | -0,2 | -0,1 | -1,1 | -1,4 |
Cận Sahara châu Phi | 3,6 | 3,6 | 4,2 | -0,1 | 0,1 | -0,2 | 0,1 |
Nigeria | 2,9 | 2,9 | 3,2 | -0,2 | 0,2 | -0,4 | 0,2 |
CH Nam Phi | 0,7 | 1,1 | 1,5 | 0,2 | 0,3 | 0,2 | 0,3 |
GDP toàn cầu theo tỷ giá (4) | 2,8 | 2,7 | 2,8 | 0,0 | 0,0 | 0,0 | 0,0 |
Liên minh châu Âu (EU) | 0,6 | 1,1 | 1,6 | -0,1 | -0,2 | 0,0 | -0,2 |
ASEAN-5 (5) | 4,0 | 4,5 | 4,5 | 0,1 | -0,1 | 0,1 | 0,0 |
Trung Đông và Bắc Phi | 1,9 | 2,1 | 4,0 | -0,1 | 0,1 | -0,6 | -0,2 |
EMEs và thu nhập trung bình | 4,4 | 4,2 | 4,2 | -0,1 | 0,0 | 0,1 | 0,1 |
Các nước thu nhập thấp | 4,4 | 4,0 | 4,7 | -0,2 | -0,4 | -0,5 | -0,4 |
Thương mại toàn cầu: (6) | 0,8 | 3,1 | 3,4 | 0,0 | 0,0 | 0,1 | 0,1 |
- AEs nhập khẩu | -0,7 | 2,1 | 2,4 | -0,3 | -0,3 | 0,1 | -0,4 |
- EMDEs nhập khẩu | 3,0 | 4,6 | 4,9 | 0,4 | 0,1 | -0,3 | 0,8 |
- AEs xuất khẩu | 1,0 | 2,5 | 2,7 | -0,1 | -0,2 | 0,0 | -0,2 |
- EMDEs xuất khẩu | 0,6 | 4,6 | 4,6 | 0,4 | 0,5 | 0,9 | 0,7 |
Giá dầu (tính theo USD) (7) | -16,4 | 0,9 | -10,4 | 0,1 | -4,4 | 3,4 | -4,1 |
Giá cả hàng hóa khác | -5,7 | 2,9 | -0,2 | -2,1 | -1,8 | 2,8 | 0,2 |
Giá tiêu dùng thế giới (8) | 6,7 | 5,8 | 4,3 | -0,1 | -0,1 | -0,1 | -0,2 |
- Tại AEs | 4,6 | 2,6 | 2,0 | -0,1 | -0,1 | 0,0 | -0,1 |
- Tại EMDEs (8) | 8,1 | 7,9 | 5,9 | -0,1 | 0,0 | -0,3 | -0,2 |
Nguồn: Ước tính của IMF
- Tăng/giảm so với dự báo tháng 7/2024;
- Tăng/giảm so với dự báo tháng 4/2024;
- Không tính các nước G7;
- Tính theo tỷ giá thị trường;
- Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan;
- Trao đổi hàng hóa và dịch vụ;
- Giá trung bình Brent, Fateh, WTI;
- Không tính Venezuela.
Trái lại, GDP tại khu vực Trung Đông và Trung Á được kỳ vọng sẽ tăng tốc từ kết quả tăng 2,1% trong năm 2023 lên mức tăng 3,9% vào năm 2025, khi những rối loạn tạm thời về sản xuất dầu và vận tải biển được khắc phục đáng kể.
Tại khu vực Cận Sahara châu Phi, GDP cũng được dự báo sẽ tăng cao từ kết quả tăng 3,6% trong năm 2023 lên mức tăng 4,2% vào năm 2025, khi tác động tiêu cực của diễn biến thời tiết trước đây và căng thẳng nguồn cung được khắc phục về cơ bản.
Tại khu vực Mỹ Latinh và Caribê, GDP được dự báo sẽ giảm từ kết quả tăng 2,2% trong năm 2023 xuống mức tăng 2,1% trong năm nay, sau đó phục hồi lên mức tăng 2,5% vào năm 2025. Trong đó, GDP tại Brazil sẽ giảm tốc từ dự báo tăng 3,0% trong năm 2024 xuống mức tăng 2,2% trong năm 2025; GDP tại Mêhicô giảm tốc từ dự báo tăng 1,5% trong năm 2024 xuống mức tăng 1,3% trong năm 2025, khi chính sách tài khóa thắt chặt.
Tại EMDEs châu Âu, GDP được dự báo tiếp tục tăng 3,2% trong năm 2024, sau đó giảm đáng kể xuống mức tăng 2,2% vào năm 2025, nguyên nhân chủ yếu là do GDP tại CHLB Nga lao dốc từ kết quả tăng 3,6% trong năm 2023 xuống mức tăng 1,3% vào năm 2025, do mức lương tăng thấp sẽ cản trở tiêu dùng và đầu tư. Kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ sẽ giảm tốc từ kết quả tăng 5,1% trong năm 2023 xuống mức tăng 2,7% trong năm 2025, chủ yếu là do xu hướng chuyển dịch sang thắt chặt chính sách tài khóa và tiền tệ, bắt đầu từ giữa năm 2023.
Lạm phát duy trì xu hướng giảm
Theo IMF, từ đầu năm nay, tình trạng mất cân đối mang tính chu kỳ có dấu hiệu giảm nhẹ, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế theo đà tăng trưởng tiềm năng tại các nền kinh tế chủ chốt, và giảm dần mức độ chênh lệch lạm phát giữa các quốc gia, hỗ trợ xu hướng giảm lạm phát chung trên toàn cầu. Sau khi giảm xuống tỷ lệ 6,7% trong năm 2023, lạm phát cơ bản toàn cầu được dự báo tiếp tục giảm xuống mức trung bình 5,8% vào năm 2024 và 4,3% vào năm 2025.
Trong đó, lạm phát tại AEs sẽ giảm về mục tiêu đề ra nhanh hơn so với các nước đang phát triển và mới nổi (EMDEs). Cụ thể là, lạm phát sẽ giảm nhanh tại AEs với mức giảm sâu 2% trong năm 2024 và ổn định quanh mục tiêu 2,0% vào năm 2025. Tại EMDEs, lạm phát cơ bản có thể giảm từ tỷ lệ trung bình 8,1% trong năm 2023 xuống 7,9% trong năm 2024, sau đó giảm sâu xuống 5,9% vào năm 2025.
Nhiều bất ổn còn hiện hữu, gây cản trở đối với mục tiêu chính sách của các ngân hàng trung ương
Theo báo cáo của IMF, triển vọng kinh tế toàn cầu vẫn đối mặt với những bất ổn khá cao, nguyên nhân là do khoảng một nửa dân số toàn cầu sẽ tham gia bỏ phiếu trong năm nay, các chính phủ mới có thể sẽ đưa ra những thay đổi đáng kể về chính sách thương mại và tài khóa.
"Do bất ổn chính sách, rủi ro tăng trưởng thấp vẫn đe dọa triển vọng kinh tế toàn cầu", IMF lưu ý.
Ngoài ra, chao đảo bùng phát trên thị trường tài chính trong tháng 8 vừa qua đã dấy lên những lo ngại về những tổn thương tiềm ẩn, có thể buộc các nước phải thắt chặt điều kiện tài chính, cản trở đầu tư và tăng trưởng. Điều này gây khó khăn cho việc xác định lập trường chính sách tiền tệ phù hợp, nhất là tại những nước có nguy cơ tăng trưởng chậm và lạm phát cao kéo dài và các nước phụ thuộc nặng nề vào nguồn vốn vay ngắn hạn từ nước ngoài.
Căng thẳng địa chính trị tiếp tục leo thang cũng sẽ cản trở các dòng thương mại, đầu tư và các luồng tư tưởng, có thể gây tác động tiêu cực đến tăng trưởng dài hạn, đe dọa tính bền vững của các chuỗi cung ứng, gây khó khăn cho các NHTW trong việc cân bằng các mục tiêu chính sách.
Những rối loạn tiếp theo trong tiến trình giảm lạm phát vẫn có nguy cơ bùng phát, đẩy giá cả hàng hóa tăng cao trong bối cảnh căng tẳng địa chính trị triền miên. Rối loạn này có thể cản trở nỗ lực của các ngân hàng trung ương (NHTW) trong việc giảm lãi suất, gây nhiều thách thức đối với chính sách tài khóa và ổn định tài chính.
Cụ thể, từ năm 2020, các cú sốc về cung ứng đã gây tác động tiêu cực đến kinh tế và lạm phát toàn cầu, với mức độ thiệt hại khác nhau giữa các quốc gia và khu vực. Cho tới nay, AEs đã bắt kịp các hoạt động kinh tế và lạm phát như thời kỳ trước đại dịch, song các nước đang phát triển vẫn đối mặt với những khó khăn triền miên, sản lượng thấp và lạm phát vẫn ở mức cao. Các nước đang phát triển cũng dễ bị tổn thương trước xu hướng leo thang giá cả hàng hóa, sau xung đột Nga - Ukraina.
Dù xu hướng giảm lạm phát tiếp tục tiến triển lạc quan song lạm phát giá dịch vụ vẫn tăng cao tại nhiều khu vực, phần nào phản ánh tốc độ tăng lương quá nhanh theo đà tăng lạm phát, buộc một số NHTW phải lùi lại kế hoạch nới lỏng tiền tệ
IMF
Mặc dù xu hướng giảm lạm phát tiếp tục tiến triển lạc quan, nhưng lộ trình ổn định giá cả vẫn đối mặt với một vài khó khăn, với dấu hiệu là động lực kéo giảm lạm phát toàn cầu có vẻ chậm lại trong sáu tháng đầu năm. Giá cả hàng hóa đang ổn định, một số đang giảm.
Tuy nhiên, IMF chỉ ra rằng, lạm phát giá dịch vụ vẫn tăng cao tại nhiều khu vực, phần nào phản ánh tốc độ tăng lương quá nhanh theo đà tăng lạm phát, buộc một số NHTW phải lùi lại kế hoạch nới lỏng tiền tệ, gây áp lực lên nền tài chính công, nhất là tại những nước đang đối mặt với chi phí dịch vụ nợ tăng cao và cần tái vay ngoại tệ quy mô lớn.
Liên quan đến triển vọng tăng trưởng, kinh tế toàn cầu sẽ tiếp tục được định hình chủ yếu bởi các lựa chọn về tài khóa và tiền tệ, tác động lan truyền quốc tế của những giải pháp này, các nỗ lực chia cắt kinh tế thế giới, và năng lực của các chính phủ trong việc thực hiện các chủ trương cải cách cơ cấu dài hạn.
"Do lạm phát đang giảm về mục tiêu của NHTW và các chính phủ đang vất vả trong việc quản lý nợ nần, xu hướng này được kỳ vọng sẽ chuyển dịch từ thắt chặt tiền tệ sang thắt chặt tài khóa, khi lãi suất chính sách giảm dần và tiến sát đến lãi suất trung tính", IMF cho biết.
Bên cạnh đó, nếu khó khăn trong lĩnh vực bất động sản tại Trung Quốc tiếp tục trầm trọng và kéo dài hơn so với kỳ vọng, và dẫn đến bất ổn tài chính, chi tiêu dùng sẽ tiếp tục giảm, gây tác dụng lan tỏa toàn cầu, do Trung Quốc là đối tác lớn trong hoạt động thương mại toàn cầu. Một khi các nước tăng cường các rào cản thương mại và chính sách bảo hộ kinh tế, hiệu quả thị trường sẽ giảm thấp, và tiếp tục gây rối loạn các chuỗi cung ứng. Căng thẳng xã hội leo thang cũng dễ dàng dẫn đến những bất ổn khó lường, gây tổn hại niềm tin của người tiêu dùng và doanh nghiệp, kéo lùi tiến trình thực hiện các nỗ lực cải cách cơ cấu cần thiết.
"Nhìn chung, tại nhiều nước, cần chuyển trong tâm sang chính sách tài khóa, đảm bảo bền vững nợ công và tái xây dựng các gói đệm tài khóa, nhưng phải phù hợp với tình hình cụ thể tại mỗi nước", IMF khuyến nghị.
Cơ quan này lưu ý thêm, cần tiến hành cải cách cơ cấu, qua đó có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trung hạn, nhưng cần duy trì các giải pháp hỗ trợ người nghèo và những đối tượng dễ bị tổn thương nhất. Tăng cường hợp tác đa phương nhằm thúc đẩy tăng trưởng xanh và hỗ trợ các nỗ lực tái cơ cấu nợ, giảm thiểu rủi ro bắt nguồn từ xu hướng chia cắt địa lý, củng cố các khung khổ luật pháp đa phương, đảm bảo để tất cả các nước cùng hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng kinh tế trong tương lai.