Nhìn ra thế giới

Chu kỳ thắt chặt tiền tệ trên thế giới đã đi đến hồi kết?

Phương Thanh (Tổng hợp) 24/11/2024 09:12

Thắt chặt tiền tệ là xu hướng được thấy từ năm 2021 tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, ngoại trừ Nhật Bản là một ngoại lệ. Sau hơn 2 năm rưỡi thực hiện thắt chặt tiền tệ thông qua tăng lăi suất điều hành để chống lại lạm phát dai dẳng, thời điểm hiện tại có thể là bước ngoặt đối với các Ngân hàng Trung ương để kết thúc chu kỳ này.

Theo thống kê, kể từ tháng 9/2021 đến nay, 9 nền kinh tế phát triển (bao gồm Mỹ, khu vực đồng tiền chung châu Âu, Anh, Canada, Na Uy, New Zealand, Thuỵ Điển, Thuỵ Sỹ) đã tăng lãi suất tổng cộng 3.965 điểm cơ bản trong chu kỳ này. Tuy nhiên, trong tháng 11, kể cả trong tháng 10 vừa rồi, nhiều ngân hàng trung ương lớn trên thế giới đã quyết định dừng tăng lãi suất (như Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), Ngân hàng Trung ương Anh (BOE), Ngân hàng Trung ương Canada (BOC), Ngân hàng Dự trữ Australia (RBA)…), tuy rằng chưa ai tuyên bố chiến thắng lạm phát. Điều này làm dấy lên dự đoán có lẽ chu kỳ tăng lãi suất trên thế giới đã chính thức đi đến hồi kết?.

Đối với ECB, cuộc họp tháng 11 vừa qua là cuộc họp lần đầu tiên sau 15 tháng mà các Thống đốc Ngân hàng trung ương khu vực đồng Euro đạt được đồng thuận về việc ngừng tăng lãi suất. Ngay cả những thành viên có quan điểm “diều hâu” nhất trong hội đồng quản trị ECB cũng đi theo quyết định từ bỏ không tăng chi phí đi vay thêm nữa sau khi lạm phát ở khu vực đồng tiền chung này giảm mạnh.

Ông Yannis Stournaras, Thống đốc ngân hàng trung ương Hy Lạp, người chủ trì cuộc họp của ECB tháng 11 nhớ lại: “Đó là cuộc thảo luận yên tĩnh nhất mà chúng tôi có được trong nhiều tháng. Rõ ràng là, chúng tôi đã thắt chặt chính sách tiền tệ đủ mức”.

ECB không đơn độc trong việc lựa chọn đóng băng, không tăng lãi suất. FED, BOE, BOC đều giữ nguyên chính sách trong các cuộc họp quyết định về lãi suất trong tháng 11, cùng tham gia là các ngân hàng trung ương ở các quốc gia từ Cộng hòa Séc đến New Zealand. Các ngân hàng trung ương ở một số thị trường mới nổi bao gồm Brazil và Ba Lan đang thực hiện cắt giảm lãi suất.

Việc dừng chu kỳ tăng lãi suất đã làm dấy lên sự lạc quan trong giới đầu tư thị trường trái phiếu rằng, các nền kinh tế hàng đầu sắp chế ngự được tình trạng lạm phát gia tăng, sau khi tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm hơn một nửa so với mức đỉnh ở các nền kinh tế bao gồm Mỹ và khu vực đồng Euro. Jari Stehn, kinh tế trưởng về khu vực châu Âu của Goldman Sachs cho biết: “Ngày càng có nhiều quan điểm cho rằng vấn đề lạm phát hiện đã được kiểm soát - và tôi cũng cho rằng như vậy”.

Tuy nhiên, Chủ tịch ECB Christine Lagarde, Jay Powell của FED và Andrew Bailey của BOE gần đây đều tiếp tục khẳng định việc tăng thêm lãi suất vẫn được cân nhắc, mặc dù có dấu hiệu cho thấy lạm phát giá tiêu dùng đang giảm xuống.

Điều đó một phần phản ánh mong muốn trả lời cho việc các nhà đầu tư muốn giảm lợi suất trái phiếu và nới lỏng các điều kiện tài chính, làm suy yếu chiến dịch kiềm chế tăng trưởng giá cả.

Đồng thời, điều này cũng phản ánh sự không chắc chắn thực sự về việc liệu dữ liệu gần đây có đánh dấu một bước ngoặt có tính thuyết phục hay không, đặc biệt là khi xét đến những thất bại đã được dự báo trước của các ngân hàng trung ương và những lo ngại về môi trường địa chính trị đầy biến động có thể gây ra những cú sốc giá mới.

Joseph Gagnon, cựu nhân viên cấp cao của FED đang làm việc tại Viện Kinh tế Quốc tế Peter-son cho biết, các ngân hàng trung ương hiện đang ở “điểm mang tính bước ngoặt” và đây là điểm tối thiểu - chứ không phải tối đa - về niềm tin vào triển vọng. Ông nói: “Khi biết mình đang ở phía sau đường cong và tốt hơn hết là nên tăng lãi suất thật nhanh để đuổi kịp, bạn sẽ rất tự tin rằng mình đang làm điều đúng đắn. Nhưng khi tiến đến nơi mà mình nghĩ có thể đã làm đủ, đó là lúc bạn không còn chắc chắn về bước đi tiếp theo. Đây chính là cảm giác của các ngân hàng trung ương hiện nay.”

Thận trọng để đảm bảo an toàn

Sự thận trọng trong suy nghĩ và quan điểm của các ngân hàng trung ương là có thể hiểu được sau khi các ngân hàng trung ương đã mắc sai lầm nặng nề trong xử lý lạm phát hai năm trước.

Sự phục hồi nhanh chóng của chi tiêu tiêu dùng sau khi dỡ bỏ lệnh phong tỏa để phòng chống dịch COVID-19, cùng với những tác động kéo dài của tình trạng thiếu hụt chuỗi cung ứng, gói kích thích tài chính khổng lồ của Mỹ và cú sốc giá năng lượng xuất phát từ chiến sự tại Ukraine, tất cả đã góp phần gây ra đợt bùng phát lạm phát tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ ở các nền kinh tế lớn.

Đó là một đợt bùng phát mà các ngân hàng trung ương đã chậm trễ trong hành động cho đến khi họ nhận ra rủi ro để vuột mất đi kỳ vọng lạm phát ra khỏi mục tiêu 2% của mình.

Các nhà hoạch định chính sách tại FED, ECB, BOE và các ngân hàng trung ương khác đã liên tục triển khai hàng loạt các đợt tăng lãi suất “điên cuồng” bắt đầu từ khoảng hai năm trước, khiến chi phí đi vay ở châu Âu và Mỹ ở mức cao nhất kể từ trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.

Ở Mỹ, các đợt tăng lãi suất với biên độ lớn đã giúp kiềm chế lạm phát CPI xuống 3,7%, thấp hơn nhiều so với mức đỉnh gần 10%. Tuy nhiên, FED vẫn đang phải đối mặt với một nền kinh tế phát triển đáng ngạc nhiên với mức tăng trưởng hàng năm là 4,9% trong quý gần đây nhất.

Mặc dù giá cả tăng cao và dự trữ tiết kiệm bị thu hẹp song chi tiêu của người tiêu dùng vẫn chưa chậm lại đáng kể. Điều đó phần lớn là do thị trường lao động mạnh mẽ, mặc dù báo cáo việc làm tháng 10 yếu hơn dự kiến cho thấy sẽ có thể có một số điều tiết ở phía trước.

Phát biểu tại cuộc họp báo sau quyết định của FED dừng tăng lãi suất trong hai tháng liên tiếp, Thống đốc FED Powell kiên quyết nhấn mạnh FED không đóng cửa trong việc thắt chặt tiền tệ hơn nữa. “Vào thời điểm này, chúng tôi không tự tin rằng đã đạt được trạng thái như vậy”, ông nói khi trả lời câu hỏi liệu lãi suất hiện nay đã đủ thắt chặt để kiềm chế được lạm phát hay chưa.

Tuy nhiên, ông Powell đã không thông báo cho thị trường về bất kỳ sự thắt chặt nào sắp xảy ra, mà các nhà đầu tư cần tự đưa ra kết luận của riêng mình, khi họ chuyển sang suy đoán về thời điểm có thể thực hiện cắt giảm lãi suất. Ông Powell nhấn mạnh rằng FED thậm chí còn không quan tâm đến việc khi nào nên cắt giảm lãi suất. Tuy nhiên, việc lãi suất dài hạn tăng trong những tuần gần đây, do các yếu tố bao gồm lo ngại về khoản vay khổng lồ của chính phủ, đã giúp thắt chặt đáng kể các điều kiện tài chính, củng cố quan điểm rằng FED có thể đứng yên trong thời điểm hiện tại.

Chủ tịch FED thừa nhận rằng, điều này có thể làm giảm nhu cầu của ngân hàng trung ương trong việc thực hiện các bước bổ sung để hạn chế nhu cầu kinh tế, mặc dù phần lớn điều này sẽ phụ thuộc vào mức độ diễn biến của thị trường.

Bị chỉ trích vì phản ứng quá chậm trước đợt lạm phát lớn nhất trong mấy chục năm gần đây, ECB cũng - giống như FED - vô cùng miễn cưỡng đối với việc tuyên bố chiến thắng lạm phát sớm.

Nền kinh tế khu vực đồng Euro giảm 0,1% trong quý III/2023, trong khi lạm phát ở khu vực đồng tiền chung cũng giảm xuống dưới 3% lần đầu tiên sau hơn hai năm.

Thành viên hội đồng ECB, Isabel Schnabel, đã cảnh báo trong một bài phát biểu rằng “đoạn cuối cùng” của quá trình giảm lạm phát “sẽ không chắc chắn hơn, chậm hơn và gập ghềnh hơn” và có nguy cơ bị mất tính ổn định bởi “những cú sốc từ phía cung” như xung đột Israel-Hamas. Bà nói: “Chúng tôi không thể ngăn cản việc tăng lãi suất thêm nữa”.

Tuy nhiên, cuộc thảo luận trên thị trường hiện không tập trung vào việc liệu các đợt tăng lãi suất tiếp theo có diễn ra hay không mà thay vào đó là đợt cắt giảm lãi suất đầu tiên của ECB sẽ diễn ra khi nào. Các nhà kinh tế kỳ vọng, các cơ quan ấn định lãi suất sẽ chờ đợi bằng chứng rõ ràng rằng lạm phát đã được kiềm chế trước khi cắt giảm lãi suất.

Điều này có thể xoay quanh việc liệu các thỏa thuận tiền lương tập thể với các công đoàn vào mùa xuân tới có cho thấy mức tăng lương giảm bớt hay không – một bước quan trọng để giảm lạm phát cơ bản, loại trừ năng lượng và thực phẩm, từ mức 4,3% hiện tại. Nếu lạm phát chung của khu vực đồng Euro duy trì ở mức dưới 3%, ông Stournaras cho rằng, việc cắt giảm lãi suất có thể diễn ra “vào giữa năm tới”.

Đối với BOE, tình thế tiến thoái lưỡng nan phía trước còn khó khăn hơn. Cơ quan này đã hạ cấp quan điểm về cả sản lượng và nguồn cung của Vương quốc Anh trong dự báo tháng 11, khi giữ lãi suất ở mức 5,25%, cảnh báo áp lực trả lương vẫn mạnh mẽ hơn dự kiến và tỷ lệ thất nghiệp có thể phải tăng cao hơn dự kiến.

Triển vọng này rất ảm đạm, báo hiệu tăng trưởng đi ngang, cùng với lạm phát trên mục tiêu cho đến cuối năm 2025. Chủ tịch Bailey cho biết, Ủy ban chính sách tiền tệ (MPC) của BOE vẫn bảo lưu quyền nâng lãi suất một lần nữa nếu cần, nhưng nhiều nhà đầu tư nhận thấy mức tăng thêm rất khó xảy ra do những yếu kém của nền kinh tế và những dấu hiệu của một thị trường lao động nguội lạnh.

Tiffany Wilding, Giám đốc điều hành tại Pimco, nói rằng trong khi xu hướng lạm phát toàn phần ở châu Âu chậm hơn Mỹ một hoặc hai quý, thì các nền kinh tế ở cả hai bờ Đại Tây Dương hiện đi đúng hướng.

Song điều này không nhất thiết có nghĩa là họ hoàn toàn thoát khỏi tình thế khó khăn, một phần vì lý do chính khiến lạm phát giảm là “các tác động liên quan đến đại dịch đang mờ dần”, ví dụ như sự kết thúc của những khó khăn trong chuỗi cung ứng và một cơn gió ngược từ chính sách tài khóa.

Seth Carpenter, người trước đây từng làm việc tại Bộ Tài chính và FED, hiện nay là tại Morgan Stanley cho biết: “Tôi không nghĩ rằng bất kỳ ngân hàng trung ương nào trong số này sẵn sàng treo biểu ngữ có nội dung ‘nhiệm vụ đã hoàn thành. Hai năm rưỡi qua đã cho thấy, việc dự báo có thể khó khăn như thế nào và tôi nghĩ rằng các ngân hàng trung ương có đủ sự khiêm tốn thích hợp trong việc đoán định chắc chắn mọi thứ sẽ diễn ra ra sao”.

Bài đăng trên Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 17 năm 2023

Phương Thanh (Tổng hợp)