Làm sạch chuỗi cung ứng cao su thiên nhiên trước yêu cầu truy xuất nguồn gốc
Mô hình sản xuất và thương mại cao su thiên nhiên xuyên biên giới giữa Việt Nam và các nước khu vực sông Mê Kông đang khiến việc truy xuất sản phẩm dọc theo chuỗi cung ứng trở nên khó khăn trước yêu cầu truy xuất nguồn gốc theo Quy định về mất rừng (EUDR) của EU Đường đi xuyên biên giới.

Báo cáo của Forest Trends tại Hội thảo “Thúc đẩy sản xuất, thương mại và đầu tư cao su bền vững tại Campuchia và Việt Nam” do Oxfam tại Campuchia, Hiệp hội cao su Việt Nam và Forest Trends tổ chức mới đây cho biết, Việt Nam và Campuchia có mối liên hệ chặt chẽ trong đầu tư và thương mại cao su thiên nhiên (CSTN).
Campuchia là điểm đến quan trọng nhất của Việt Nam trong lĩnh vực đầu tư, sản xuất CSTN và là nước xuất khẩu CSTN chính cho Việt Nam.
Cũng theo Forest Trends, Tập đoàn Cao su Việt Nam (VRG) là nhà đầu tư CSTN hàng đầu tại Campuchia, hiện có 16 dự án trồng cao su với diện tích gần 90.000 ha và 7 cơ sở chế biến tại Campuchia.
Các công ty Việt Nam khác, cả công ty nhà nước và tư nhân, cũng đã đầu tư vào sản xuất CSTN tại Campuchia. Dữ liệu hải quan của Việt Nam cho thấy, vào năm 2024, Việt Nam đã nhập khẩu gần một triệu tấn CSTN từ Campuchia, chiếm hơn 64% tổng lượng nhập khẩu của Việt Nam, trị giá hơn 1,2 tỷ USD. Lượng nhập khẩu của Campuchia gần bằng sản lượng trong nước của Việt Nam.
Báo cáo cũng chỉ ra rằng, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu CSTN quan trọng nhất của Việt Nam. Hầu hết CSTN sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu từ Campuchia đều được xuất khẩu sang Trung Quốc.
Năm 2024, Việt Nam đã xuất khẩu 1,45 triệu tấn CSTN sang Trung Quốc, trị giá 2,4 tỷ USD. Các thị trường xuất khẩu thiết yếu khác của Việt Nam bao gồm EU, Hoa Kỳ, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Theo TS.Tô Xuân Phúc chuyên gia Forest Trends, mặc dù không có thông tin nào về việc CSTN từ Việt Nam nhập khẩu vào Trung Quốc có được xuất sang EU và các thị trường khác hay không, nhưng có thông tin cho rằng một phần lượng nguyên liệu nhập khẩu của Trung Quốc sẽ được chuyển đến các thị trường tiếp theo thông qua các sản phẩm cuối cùng như lốp xe và chỉ.
Đạo luật EUDR và thách thức cho Việt Nam.
Thực tế cho thấy các thị trường tiêu dùng lớn như EU và Hoa Kỳ đang áp dụng các quy định ngày càng nghiêm ngặt về tính hợp pháp và không mất rừng liên quan đến các sản phẩm nhập khẩu vào các thị trường này.
Vào năm 2023, EU đã thông qua Quy định về mất rừng (EUDR) cấm 7 sản phẩm, bao gồm cao su, nhập khẩu vào thị trường này nếu quá trình sản xuất các sản phẩm này gây ra tình trạng mất rừng.
Theo đó, các nhà nhập khẩu tại EU được yêu cầu đảm bảo sản phẩm của họ là hợp pháp và không gây mất rừng. Các sản phẩm cần có khả năng truy xuất nguồn gốc tới tận lô đất nơi trồng nông/ lâm sản. Dự kiến các quy định ngày càng thắt chặt về tính hợp pháp và tính bền vững sẽ được áp dụng rộng rãi tại các thị trường lớn trong tương lai.
Theo TS. Tô Xuân Phúc đại diện Forest Trends, tính liên kết giữa các khâu sản xuất và thương mại CSTN của các nước trong khu vực sông Mê Kông, đặc biệt là giữa Campuchia và Việt Nam, đã khiến chuỗi cung ứng trở nên phức tạp hơn.
“Việt Nam đóng vai trò đặc biệt trong sản xuất và thương mại cũng như đầu tư vào CSTN trong khu vực. Mô hình sản xuất và thương mại CSTN xuyên biên giới hiện tại giữa Việt Nam và các quốc gia khác ở sông Mê Kông khiến việc truy xuất sản phẩm dọc theo chuỗi cung ứng trở nên khó khăn nếu không muốn nói là không thể”- Chuyên gia Forest Trends nhận định.
Theo đại diện của Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA), bà Phan Trần Hồng Vân, các công ty Việt Nam hoạt động tại Việt Nam và các quốc gia khác, bao gồm cả Campuchia, đang có những bước đi mạnh mẽ để tuân thủ các yêu cầu của thị trường.
“EUDR đặt ra cả cơ hội và thách thức cho ngành của chúng tôi. Các công ty có nguồn lực sẵn có và nền tảng vững chắc về các tiêu chuẩn quản lý chất lượng và môi trường sẽ có lợi thế so với các công ty chưa có sẵn các hợp phần này. Ngoài ra, chuỗi cung ứng hiện tại khá phức tạp, liên quan đến nhiều tầng thương lái và nhiều hộ nông dân nhỏ. Khả năng truy xuất nguồn gốc vẫn là một thách thức đáng kể."- Đại diện VRA chia sẻ.
Làm sạch chuỗi cung ứng
Trước thực tế đó, các sáng kiến nhằm làm sạch chuỗi cung ứng đang được triển khai ở nhiều quy mô khác nhau. Tại Việt Nam, Chính phủ đã hợp tác chặt chẽ với ngành cao su (cũng như ngành gỗ và cà phê) để chuẩn bị cho EUDR. Các chính sách mới đã được xây dựng và các nguồn lực được huy động để chuẩn bị cho các công ty cao su đáp ứng EUDR. Các công ty cao su, bao gồm cả công ty nhà nước và tư nhân, đang cố gắng làm sạch chuỗi cung ứng của mình.
Mai Vĩnh, một công ty tư nhân tại Việt Nam, hiện đang hợp tác với hơn 3.000 hộ trồng cao su để sản xuất CSTN tuân thủ EUDR cho người mua châu Âu. Đại diện doanh nghiệp này cho biết, làm việc với số lượng lớn hộ nông dân nhỏ rất khó khăn, nhưng doanh nghiệp không còn lựa chọn nào khác ngoài việc hợp tác với họ. “Họ là xương sống của chúng tôi ”, bà Đặng Thị Hoa Mai, người đứng đầu Mai Vĩnh chia sẻ.
Đại diện Công ty CP Cao su Chu Se Kampong Thom cho biết, Tập đoàn Cao su Việt Nam do nhà nước sở hữu đã hỗ trợ các thành viên của mình, bao gồm cả những công ty hoạt động tại Lào và Campuchia trong quá trình chuẩn bị cho EUDR. Chu Se Kampong Thom nổi bật là mô hình thực hành tốt nhất về tuân thủ EUDR toàn diện.
Với 16.000 ha cao su tại Campuchia, công ty đã đầu tư mạnh vào công nghệ số để cải thiện quản lý đồn điền và tăng cường tính minh bạch và khả năng truy xuất nguồn gốc trong toàn bộ chuỗi cung ứng.
Tuy nhiên, cho đến nay, có rất ít nỗ lực tập trung vào các khía cạnh thương mại CSTN xuyên biên giới giữa các nước Mekong và đặc biệt là giữa Việt Nam và Campuchia.
Tại Hội thảo, bà Sophoan Phean, Giám đốc quốc gia của Oxfam tại Campuchia, cho biết. Oxfam đang hợp tác chặt chẽ với Tổng cục Cao su thuộc Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Campuchia, các tổ chức trong nước và quốc tế để xây dựng Hướng dẫn về CSTN bền vững của Campuchia, bản địa hóa Sổ tay tham gia cộng đồng từ bối cảnh Việt Nam sang Campuchia, cung cấp đào tạo kỹ năng về kết nối cộng đồng và bình đẳng giới cho các công ty thành viên của VRG tại Campuchia và Việt Nam. Hơn nữa, Oxfam và các đối tác hỗ trợ huy động các cá nhân, đơn vị sản xuất cao su quy mô nhỏ để giúp họ có khả năng đàm phán về giá mủ cao su với các thương lái, đồng thời tăng cường sự đoàn kết và chia sẻ kiến thức trong lĩnh vực này.
"Hiểu được các khía cạnh xuyên biên giới này có ý nghĩa rất lớn đối với EUDR. Trong khi việc thực hiện EUDR có thể thúc đẩy sự thay đổi đáng kể trong cách thức sản xuất, cung ứng và buôn bán cao su, đồng thời nâng cao tính bền vững trong chuỗi giá trị cao su, thì những người nông dân trồng cao su quy mô nhỏ có nguy cơ bị thiệt thòi nếu họ không có khả năng thích ứng hoặc tiếp cận được sự hỗ trợ đầy đủ. Điều này đòi hỏi những nỗ lực chung từ các bên liên quan, bao gồm cả chính phủ, khu vực tư nhân và các tổ chức phi chính phủ"- TS. Tô Xuân Phúc lưu ý.