Dự thảo Nghị định quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng trong doanh nghiệp nhà nước, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đề xuất mức lương cơ bản cao nhất của Chủ tịch hội đồng thành viên (hoặc Chủ tịch công ty), Chủ tịch Hội đồng quản trị trong doanh nghiệp nhà nước là 80 triệu đồng/tháng.
Theo Dự thảo Nghị định, tiền lương, tiền thưởng của Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên được xác định tách bạch với tiền lương, tiền thưởng của Ban điều hành. Trong đó, Ban điều hành, tiền lương, tiền thưởng được tính chung trong quỹ tiền lương, tiền thưởng với người lao động và được chi trả gắn với kết quả sản xuất, kinh doanh và có khống chế mức tiền lương tối đa so với mức tiền lương bình quân chung của người lao động. Trường hợp thành viên Ban điều hành được thuê làm việc theo hợp đồng lao động thì tiền lương, tiền thưởng được thực hiện theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động.
Tiền lương của Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên được xác định trên cơ sở mức lương cơ bản, tiền lương tăng thêm và tiền thưởng, tính theo năm, gắn với quy mô, mức độ phức tạp của quản lý, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn nhà nước.
Trường hợp Thành viên hội đồng đồng thời đảm nhận chức danh Ban điều hành thì hưởng tiền lương, tiền thưởng theo chức danh Ban điều hành và thù lao theo chức danh Thành viên hội đồng; Chủ tịch công ty kiêm Tổng giám đốc, Giám đốc thì hưởng tiền lương, tiền thưởng theo chức danh Chủ tịch công ty; Ban kiểm soát chỉ có 1 Kiểm soát viên theo quy định tại Điều 103 Luật Doanh nghiệp thì Kiểm soát viên được hưởng tiền lương, thù lao, tiền thưởng của chức danh Trưởng Ban kiểm soát.
Cụ thể, mức lương cơ bản của Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên làm việc chuyên trách được quy định như sau:
Mức lương cơ bản gồm 8 mức, chia theo 2 nhóm doanh nghiệp (nhóm I: áp dụng đối với tổng công ty, tập đoàn kinh tế; nhóm II: áp dụng đối với doanh nghiệp độc lập).
Mức lương cơ bản cao nhất của Chủ tịch Hội đồng thành viên (hoặc Chủ tịch Công ty), Chủ tịch Hội đồng quản trị ở mức 1 là 80 triệu đồng/tháng, tăng 10 triệu đồng so với Đề án khi báo cáo Trung ương dự kiến thực hiện từ năm 2021. Mức lương cơ bản thấp nhất của Chủ tịch Hội đồng thành viên (hoặc Chủ tịch Công ty), Chủ tịch Hội đồng quản trị là mức 4 với 32 triệu đồng/tháng.
Cùng với đó, mức lương cơ bản cao nhất và thấp nhất của Trưởng ban Kiểm soát lần lượt là 66 và 26 triệu đồng/tháng.
Mức lương cơ bản cao nhất và thấp nhất của Thành viên Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, Kiểm soát viên là 65 và 25 triệu đồng/tháng.
Mức lương cơ bản được quy định gắn với 3 chỉ tiêu vốn, doanh thu, lợi nhuận chia theo ngành, lĩnh vực (không dựa vào xếp hạng như hiện hành) theo Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định.
Hằng năm, doanh nghiệp căn cứ vào chỉ tiêu sản xuất, kinh doanh kế hoạch để xác định mức lương cơ bản được hưởng theo nguyên tắc phải bảo đảm đủ 3 chỉ tiêu tương ứng với mức lương nào thì được áp dụng mức lương cơ bản đó.
Cùng với lương cơ bản, Dự thảo Nghị định cũng nêu rõ mức thù lao của Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên làm việc không chuyên trách, xác định theo thời gian thực tế làm việc nhưng tối đa không quá 20% mức tiền lương của Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên làm việc chuyên trách.
Về tiền thưởng của Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên, Dự thảo Nghị định nêu, tiền thưởng sẽ tối đa không quá 2 tháng tiền lương, thù lao thực hiện, nếu lợi nhuận thực hiện không thấp hơn kế hoạch và doanh nghiệp xếp loại A.
Cùng với đó, tiền thưởng tối đa không quá 02 tháng tiền lương, thù lao thực hiện nhân với tỷ lệ (%) lợi nhuận thực hiện so với kế hoạch, nếu lợi nhuận thực hiện thấp hơn kế hoạch và doanh nghiệp xếp loại A hoặc loại B; tối đa không quá 1,5 tháng tiền lương, thù lao thực hiện nhân với tỷ lệ (%) lợi nhuận thực hiện so với kế hoạch, nếu lợi nhuận thực hiện thấp hơn kế hoạch và doanh nghiệp xếp loại C.
Doanh nghiệp được thành lập và hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận thì thực hiện trích tiền thưởng cho Thành viên hội đồng, Kiểm soát viên theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Tài chính.