(thitruongtaichinhtiente.vn) - Ngày 12/1, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam phối hợp cùng Tổ chức quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) tổ chức hội thảo Đánh giá rủi ro môi trường – xã hội trong hoạt động cấp tín dụng đối với ngành dệt may Việt Nam nhằm giúp các tổ chức tín dụng nâng cao kiến thức, hiểu rõ hơn những cơ hội, tiềm năng phát triển cũng như những thách thức, rủi ro của ngành dệt may, đặc biệt là rủi ro về môi trường và xã hội, từ đó đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp.
Phát biểu khai mạc hội thảo TS. Nguyễn Quốc Hùng - Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết, ngành dệt may trong nhiều năm qua là ngành xuất khẩu chủ lực của nước ta, tuy nhiên, đây cũng được đánh giá là một trong các ngành kinh tế có mức độ rủi ro môi trường và xã hội cao so với các ngành, lĩnh vực kinh tế khác do quá trình sản xuất cần phải khai thác, sử dụng và xả thải một lượng nước lớn, đồng thời sử dụng nhiều năng lượng cho việc đun nóng, tạo ra hơi nước, dẫn đến tác động lên nguồn nước và góp phần gia tăng khí thải nhà kính.
Tổng Thư ký HHNH Nguyễn Quốc Hùng phát biểu khai mạc Hội thảo. Ảnh: Bảo Đăng |
Ngành dệt may nằm trong số 20 ngành kinh tế đã được các tổ chức tín dụng đánh giá kỹ rủi ro về môi trường khi cấp tín dụng theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước tại Sổ tay đánh giá các rủi ro môi trường và xã hội, ban hành tháng 8/2018.
“Về phía ngành Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước đã rất quan tâm, ban hành nhiều văn bản quy định về tín dụng phù hợp với mục tiêu bảo vệ môi trường, giảm thải carbon, hướng tới tăng trưởng xanh. Về phía các tổ chức tín dụng cũng đã thể hiện sự quan tâm lớn tới trách nhiệm phát triển tín dụng xanh, xây dựng chính sách cấp tín dụng ưu đãi đối với khách hành có phương án, dự án sản xuất kinh doanh đáp ứng mục tiêu tăng trưởng xanh”, ông Nguyễn Quốc Hùng chia sẻ.
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tính đến tháng 11/2021, có 67 tổ chức tín dụng triển khai “tín dụng xanh”, dư nợ cấp tín dụng đối với các dự án xanh chiếm khoảng hơn 4% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, tăng 0,46% so với năm 2020. Tuy nhiên, dư nợ đối với ngành dệt may chỉ khoảng 145.000 tỷ đồng (tăng khoảng 5.000 tỷ đồng so với thời điểm cuối năm 2020), chiếm gần 1,5% trong tổng dư nợ cho vay nền kinh tế.
Với mục tiêu hướng tới tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, bên cạnh yếu tố hiệu quả kinh tế của phương án kinh doanh, các tổ chức tín dụng sẽ hướng đến tài trợ tín dụng cho các ngành kinh tế xanh, bảo vệ môi trường.
Vì vậy, ông Nguyễn Quốc Hùng khẳng định, mục tiêu xanh hoá sản xuất, nâng cao trách nhiệm và thực hiện đầy đủ các quy định về bảo vệ môi trường trong sản xuất là yêu cầu cấp bách, mang tính chiến lược của ngành dệt may nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng và thu hút dòng vốn đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Tại Việt Nam, ngày càng có nhiều thực hành xanh trong ngành dệt may, tập trung vào tiết kiệm năng lượng, điện, nước và giảm ô nhiễm môi trường. Theo bà Hoàng Thị Thanh Nga, Trưởng nhóm ngành dệt may của WWF, có bốn lý do chính lý giải cho sự cần thiết của chương trình “xanh hóa dệt may” đối với Việt Nam. Đầu tiên, để tận dụng các cơ hội miễn/giảm thuế quan của các FTA với châu Âu và các nước (EVFTA, CPTTP), Việt Nam cần đảm bảo các yêu cầu của FTA về nguồn nguyên liệu (từ vải hoặc sợi trở đi, đảm bảo các tiêu chuẩn môi trường – xã hội).
Thứ hai, để đảm bảo an ninh nước, năng lượng, và các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu, Chính phủ đang thắt chặt các quy định, thuế quan liên quan đến nước, năng lượng và sử dụng hoá chất, đồng thời chính quyền địa phương cũng rất cẩn trọng về tác động môi trường của dự án dệt vải khi cấp phép đầu tư.
Thứ ba, ngày càng nhiều nhãn hàng cam kết với các mục tiêu bền vững và đặt ra tiêu chí rõ ràng cho chuỗi cung ứng của họ. Thứ tư, Việt Nam đang mất dần các lợi thế cạnh tranh truyền thống (giá rẻ, yêu cầu thấp với FDI) và cần phải tạo ra lợi thế cạnh tranh mới bằng cách chuyển đổi sang “sản xuất tại Việt Nam một cách bền vững”.
|
Chương trình “Xanh hóa ngành dệt may Việt Nam thông qua cải thiện quản lý nước và năng lượng bền vững” của WWF được phát triển nhằm tạo ra những thay đổi tích cực cho ngành dệt may Việt Nam và kết nối các đơn vị quản lý môi trường và quản lý ngành nhằm mang lại lợi ích xã hội, kinh tế và bảo vệ môi trường tại Việt Nam và toàn bộ khu vực sông Mekong. Sự can thiệp của dự án tập trung vào việc nâng cao nhận thực để thúc đẩy thay đổi hành vi, tập huấn kỹ thuật và hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ (SME), phân khúc thị trường mà các tổ chức tài chính ở Việt Nam có lợi thế với mạng lưới chuyên nghiệp rộng khắp cả nước và hệ thống giám sát chất lượng tín dụng tốt trong phát triển các giải pháp bền vững về nước và năng lượng.
Để thúc đẩy đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam vào các giải pháp xanh, chương trình đã tài trợ nghiên cứu khả thi về kỹ thuật và tài chính của các phương án đầu tư xanh cụ thể mà các doanh nghiệp lựa chọn. Nghiên cứu khả thi về công nghệ - tài chính cung cấp các số liệu về khả năng tiết kiệm tài nguyên, tiết kiệm chi phí và các chỉ số tài chính của khoản đầu tư (tỷ lệ hoàn vốn nội bộ, tỷ lệ hoàn vốn đầu tư). Nghiên cứu không chỉ giúp các chủ doanh nghiệp đưa ra quyết định đầu tư mà còn là một tài liệu quan trọng để áp dụng tín dụng bao gồm phân tích mức độ hiệu quả tài chính và môi trường.
Các đại biểu tham dự Hội thảo trực tuyến. |
Thông qua phân tích chuỗi giá trị của ngành dệt may, nghiên cứu khả thi chỉ ra rằng, có 3 lĩnh vực chính cần đầu tư xanh, đó là đầu tư vào công nghệ xanh để sản xuất nguyên liệu đầu vào như sợi, vải và phụ liệu; đầu tư áp dụng công nghệ mới nhất giảm thiểu ô nhiễm chất thải và tăng cường sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên bao gồm nhưng không giới hạn ở xử lý nước và tiết kiệm năng lượng; đầu tư thiết kế sản phẩm và xây dựng sự khác biệt hóa thương hiệu theo xu hướng sản phẩm xanh toàn cầu.
Rủi ro cấp tin dụng dệt may có thể kể đến như công nghệ đặc thù, môi trường, hóa chất và ô nhiễm; yếu tố thâm dụng lao động, xu hướng gia tăng lương tối thiểu và sự biến động nhân sự; lợi nhuận và giá trị tích lũy thấp, khả năng trả nợ khi các yếu tố tác động thay đổi; sự phụ thuộc vào thị trường và chuỗi giá trị toàn cầu, xu hướng thời trang và các rủi ro không thể dự đoán trước.
Các giải pháp giảm thiểu rủi ro cho dệt may được nghiên cứu đề xuất bao gồm bảo lãnh hay bảo đảm của bên thứ ba; đồng cho vay hoặc kết hợp nhiều sản phẩm tín dụng; dịch vụ hỗ trợ kết nối đến các nguồn tài chính, doanh nghiệp trong chuỗi giá trị; khuyến khích phát triển và tìm kiếm các nguồn trả nợ phụ trội từ dự án, đơn vị đi vay; kết hợp chặt chẽ và tận dụng hỗ trợ kỹ thuật của các chuyên gia, tổ chức quốc tế để hoàn thiện hệ thống và nâng cao năng lực
Chương trình của WWF tiếp tục thúc đẩy khả năng tiếp cận nguồn tín dụng xanh từ ngân hàng cho các doanh nghiệp dệt may. Trong khi nghiên cứu khả thi là để nhận các khoản vay cho khoản đầu tư rất cụ thể của từng doanh nghiệp thì chương trình cần nâng cao khả năng chuyển đổi xanh và đầu tư xanh cho toàn bộ ngành dệt may. Với mục tiêu này, WWF thúc đẩy việc phát triển một dòng tín dụng xanh dành riêng các doanh nghiệp dệt may. Mặc dù mỗi tổ chức tài chính đều có hạn mức rủi ro và tỷ lệ riêng dành cho ngành dệt may trong danh mục đầu tư của mình, nhưng ngành dệt may thường nằm trong nhóm khách hàng tín dụng có tỷ trọng thấp trong tổng danh mục đầu tư. Ngành dệt may thường không nằm trong nhóm ngành có tỷ trọng dư nợ lớn hoặc tín dụng lớn như năng lượng, bất động sản, bên cạnh đó cũng thường không được các tổ chức tài chính đầu tư thích đáng trong việc nghiên cứu và xây dựng chiến lược cụ thể để tương xứng với tiềm năng và tầm nhìn đến năm 2030.
Ngành dệt may thường được biết là có tác động tiêu cực tới môi trường, do đó, việc các tổ chức tài chính tham gia chuyển đổi dòng đầu tư từ công nghệ sử dụng nhiều nước và năng lượng cũ sang sử dụng hiệu quả tài nguyên vừa là một điểm thưởng trong việc dành được lòng tin từ cộng đồng, vừa quản lý được các rủi ro môi trường cho các khoản vay vừa góp phần quản lý rủi ro về mặt danh tiếng một cách hiệu quả.