Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đã chỉ ra những điểm sáng góp phần giúp kinh tế Việt Nam khởi sắc trong 5 tháng đầu năm và là những bệ đỡ quan trọng trong phần còn lại của năm 2023.
Báo cáo “Kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 5/2023” vừa được TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV công bố cho biết, kinh tế thế giới 5 tháng đầu năm 2023 tiếp tục gặp khó khăn, các tín hiệu phục hồi yếu hơn so với 4 tháng đầu năm, trong đó các đầu tàu kinh tế đối mặt với nhiều khó khăn.
Ở trong nước, kinh tế Việt Nam tiếp tục ghi nhận một số kết quả tích cực: Dịch bệnh được kiểm soát; Chính phủ tiếp tục ban hành nhiều chính sách, giải pháp tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; hoạt động bán lẻ tăng trưởng tốt, giải ngân đầu tư công tiếp tục được đẩy mạnh, là hai động lực quan trọng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế; giá cả cơ bản ổn định, lạm phát và lãi suất đang đà giảm, tỷ giá ổn định.
Bên cạnh những điểm tích cực trên, TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả cũng chỉ ra những thách thức mà nền kinh tế Việt Nam đã phải đối mặt trong 5 tháng đầu năm 2023, có thể kể đến như: Rủi ro, thách thức từ bên ngoài vẫn hiện hữu; hoạt động xuất - nhập khẩu tiếp tục đà suy giảm, khiến sản xuất công nghiệp tiếp tục gặp khó khăn; thu hút và giải ngân vốn FDI kém khả quan, nhưng đã tích cực hơn so với tháng trước; thu ngân sách nhà nước giảm; doanh nghiệp tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn; tín dụng tăng thấp, nợ xấu đang tăng (nhưng trong tầm kiểm soát)…
Những điểm nhấn tích cực
Trong bức tranh chung của nền kinh tế, TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả đã chỉ ra những điểm sáng quan trọng của kinh tế Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2023, cụ thể:
Điểm sáng đầu tiên, dịch bệnh được kiểm soát: Trong tháng 5, rủi ro dịch bệnh ở mức thấp khi ngày 6/5, WHO đã dỡ bỏ tình trạng khẩn cấp toàn cầu đối với dịch COVID-19. Điều đó giúp các hoạt động kinh tế - xã hội vẫn được duy trì và đẩy mạnh, các hoạt động du lịch quốc tế, thương mại tiếp tục được mở rộng.
Điểm sáng thứ hai, Chính phủ tiếp tục ban hành nhiều chính sách, giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Trong tháng 5, Chính phủ tiếp tục ban hành nhiều chính sách, giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các thị trường, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh lạm phát ổn định, trong tầm kiểm soát.
Để thúc đẩy tiêu dùng trong nước, Chính phủ đã trình Quốc hội xem xét giảm thuế Giá trị gia tăng (GTGT) từ 10% xuống còn 8% với thời gian áp dụng trong vòng 6 tháng cuối năm 2023, sau khi đã ban hành Nghị định 12/NĐ-CP ngày 14/4/2023 về giãn hoãn thuế, tiền thuê đất năm 2023.
Chính phủ cũng ban hành Nghị quyết 82/NQ-CP ngày 18/5/2023 về giải pháp chủ yếu đẩy nhanh phục hồi, tăng tốc phát triển du lịch hiệu quả, bền vững nhằm thúc đẩy đà hồi phục của lĩnh vực này.
Về chính sách tiền tệ, ngày 23/5/2023, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tiếp tục giảm lãi suất điều hành và trần tiền gửi ngắn hạn (khoảng 0,5% tùy loại lãi suất và kỳ hạn) và là lần giảm thứ 3 liên tiếp trong vòng 3 tháng; đồng thời ban hành chỉ thị 02/CT-NHNN chỉ đạo các TCTD giảm lãi suất cho vay.
Đối với đầu tư nước ngoài, Thủ tướng đã ban hành Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 24/5/2023 về một số nhiệm vụ, giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài trong giai đoạn mới trong đó nhấn mạnh tạo thuận lợi hơn nữa cho thu hút đầu tư nước ngoài (cải thiện môi trường kinh doanh, tăng cường xúc tiến và quản lý) và sản xuất kinh doanh.
Ngày 26/5/2023, Thủ tướng đã ban hành Công điện số 470/CĐ-TTg về tiếp tục thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp.
Trong tháng 5, Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023 về quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050 (Quy hoạch điện VIII), tạo cơ sở quan trọng đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Điểm sáng thứ ba, hoạt động bán lẻ tăng trưởng tốt, là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 5 ước đạt 519.000 tỷ đồng, tăng 1,5% so với tháng trước và tăng 11,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng tăng 12,6% (loại trừ yếu tố giá tăng 8,3%) so với cùng kỳ năm trước và tăng 28,3% so với cùng kỳ năm 2019 - năm trước khi xảy ra dịch COVID-19 nhờ lĩnh vực tiêu dùng, du lịch phục hồi tích cực (doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 22,1% so với cùng kỳ năm trước, trong khi doanh thu dịch vụ lữ hành tăng gấp 1,35 lần so với cùng kỳ năm trước).
Trong 5 tháng đầu năm 2023, Việt Nam đã đón hơn 4,6 triệu lượt khách quốc tế, gấp 12,6 lần so với cùng kỳ năm trước trong bối cảnh Trung Quốc - chiếm hơn 30% thị phần du lịch quốc tế của Việt Nam đã mở cửa du lịch sang Việt Nam từ giữa tháng 3/2023.
TS.Cấn Văn Lực và nhóm tác giả cho rằng, trong bối cảnh các động lực tăng trưởng quan trọng như lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu đang suy giảm, lĩnh vực tiêu dùng đang là bệ đỡ quan trọng, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý đà tăng trưởng của lĩnh vực bán lẻ và tiêu dùng đang có dấu hiệu chậm lại (trong 3 tháng đầu năm tăng 13,9%, lũy kế 4 tháng tăng 12,77% và 5 tháng tăng 12,55% so với cùng kỳ năm trước).
Điểm sáng thứ tư, lạm phát ổn định dù nhiều hàng hóa do nhà nước quản lý tăng giá: CPI tháng 5 tăng nhẹ 0,01% so với tháng trước chủ yếu nhờ nguồn cung thực phẩm dồi dào, học phí tại một số địa phương ổn định và giá xăng dầu giảm. CPI bình quân 5 tháng tăng 3,55%, giảm so với mức tăng 3,84% của 4 tháng năm 2023, là mức lũy kế thấp nhất kể từ đầu năm 2023; song vẫn cao hơn nhiều so với mức tăng 2,26% của 5 tháng năm 2022, chủ yếu là do:
(i) học phí và chi phí thiết bị giáo dục tăng khi các chương trình hỗ trợ giáo dục đã thu hẹp khá nhiều so với cùng kỳ 2022 khiến nhóm giáo dục tăng mạnh nhất 8,39% (đóng góp 14,58% vào mức tăng CPI chung);
(ii) nhóm giá nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 6,62% (đóng góp 35,1% vào mức tăng CPI chung), chủ yếu là do giá điện sinh hoạt tăng (+3% bình quân), nước sinh hoạt (+5,83%), giá thép xây dựng (+6,72%); nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 4,3% (đóng góp cao nhất 40,65% vào mức tăng CPI chung) khi nhu cầu tăng vào đợt nghỉ lễ và chu kỳ mùa hè.
Ở chiều ngược lại, hai nhóm hàng hóa giảm giá (góp phần làm CPI chung giảm 10,2%) là nhóm giao thông (-3,64%) do giá xăng giảm mạnh 43,6% so với cùng kỳ và giảm 3,5% so với đầu năm; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,32% do xu hướng giảm giá điện thoại thông minh và phụ kiện điện thoại.
Lạm phát cơ bản tháng 5 tăng 0,27% so với tháng trước và bình quân 5 tháng tăng 4,83% so với cùng kỳ năm trước, thấp nhất kể từ đầu năm 2023 (4 tháng đầu năm lần lượt tăng 5,21%, 5,08%, 5,01%, 4,9%) khi yếu tố cầu kéo chững lại (tăng trưởng tín dụng đạt 3,05%; vòng quay tiền rất thấp chỉ 0,16 lần, thấp hơn so với mức 0,67 lần năm 2022).
Xu hướng hạ nhiệt của lạm phát tương đối rõ nét khi chỉ số CPI giảm 3 tháng liên tiếp, tuy nhiên, áp lực lạm phát vẫn còn (dù trong tầm kiểm soát). Với các yếu tố hỗ trợ đang chiếm ưu thế (chính sách hỗ trợ học phí; giá các mặt hàng do nhà nước quản lý được điều tiết hợp lý, cung ứng hàng hóa thiết yếu được đảm bảo, lãi suất giảm, tỷ giá ổn định, cung tiền chưa thể tăng nhanh…), CPI bình quân cả năm nhiều khả năng sẽ thấp hơn so với mục tiêu (ở mức 3,8-4,2%).
Điểm sáng thứ năm, giải ngân đầu tư công tiếp tục được đẩy mạnh, là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế: Với những chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các bộ, ngành và địa phương, hoạt động đầu tư công trong tháng 5 tiếp tục đà tăng trưởng tích cực với mức thực hiện từ nguồn ngân sách ước đạt 45.100 tỷ đồng, tăng 18% so với cùng kỳ năm trước.
Lũy kế 5 tháng, vốn thực hiện đạt 177.000 tỷ đồng, bằng 25,5% kế hoạch năm và tăng 18,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 bằng 24,9% và tăng 10,8%).
Tính theo phân cấp đầu tư, vốn đầu tư thực hiện do Trung ương quản lý ước đạt 33.600 tỷ đồng, bằng 25,3% kế hoạch năm và tăng 30,2% so với cùng kỳ năm trước; 143.400 tỷ đồng, bằng 25,6% kế hoạch năm và tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước.
Kết quả hoạt động đầu tư công được duy trì tích cực là nhờ các bộ, ngành và địa phương đã tập trung đẩy mạnh thực hiện các dự án với mục tiêu tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế theo đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, với mục tiêu cao đã được Thủ tướng giao (khoảng 700.000 tỷ đồng, tăng khoảng 25% so với kế hoạch năm 2022), các bộ, ngành, địa phương vẫn cần tiếp tục tập trung, nỗ lực hơn nữa, nhất là trong quá trình chuẩn bị và triển khai các dự án trọng điểm trong các tháng còn lại của năm nay.
Điểm sáng thứ sáu, mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm, tỷ giá cơ bản ổn định: Lãi suất huy động trong tháng 5 tiếp tục đà giảm nhẹ, trên diện rộng, với mức giảm 0,2 - 0,5%/năm (tùy theo ngân hàng) trong bối cảnh nhu cầu tín dụng tiếp tục yếu đi và NHNN liên tục điều chỉnh giảm lãi suất.
Ngày 23/5, NHNN đã tiếp tục giảm lãi suất điều hành và hạ trần tiền gửi kỳ hạn dưới 6 tháng (giảm 0,5% xuống 5%) nhằm giảm lãi suất đầu vào; tạo cơ sở để các TCTD hạ lãi suất cho vay. Theo đó, lãi suất liên ngân hàng có xu hướng giảm nhẹ, lãi suất cho vay cũng giảm khi các các gói tín dụng ưu đãi kích cầu tín dụng tiếp tục được triển khai.
Tuy nhiên, việc hạ lãi suất cho vay có thể có độ trễ từ 1-3 tháng khi các TCTD phải tiếp tục trả lãi suất huy động còn cao theo cam kết đối với các khoản tiền gửi trước đó, nhưng cơ bản đang được tích cực triển khai (kể cả đối với lãi suất các khoản vay hiện tại).
Trong tháng 5, tỷ giá ổn định, biến động nhẹ khi tỷ giá liên ngân hàng giảm 0,62%, tỷ giá trung tâm tăng 0,43%; nguyên nhân do: (i) nhu cầu thanh toán ngoại tệ ở mức thấp (tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 5 tháng giảm 14,7% so với cùng kỳ năm trước); (ii) Kinh tế Việt Nam được dự báo có mức tăng cao nhất khu vực Đông Nam Á (khoảng 6,5%), duy trì sự hấp dẫn của VND; (iii) nguồn cung ngoại hối được duy trì nhờ du lịch quốc tế tiếp tục phục hồi (số lượng khách quốc tế 5 tháng đầu năm gấp 12,6 lần cùng kỳ năm trước), thặng dư thương mại ở mức 9,8 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm, dự trữ ngoại hối tăng lên khi NHNN tiếp tục tăng mua USD.
Tuy nhiên, VND đang chịu áp lực tăng giá đặc biệt trong bối cảnh đồng nội tệ của các nước trong khi vực vẫn mất giá nhẹ so với USD như THB tăng 0,5%; SGD tăng 1,1%; Peso Philippines tăng 1,2%.
Về thị trường chứng khoán (TTCK), đến hết ngày 30/5, chỉ số VNIndex là 1.078,05 điểm, tăng 2,8% so với tháng trước và tăng 7% so với đầu năm. Mặc dù vậy, nhà đầu tư (NĐT) ngoại tiếp tục bán ròng trong tháng 5 (2.600 tỷ đồng); dù lũy kế 5 tháng đầu năm vẫn mua ròng 2.800 tỷ đồng (120 triệu USD). Mức mua ròng này của Việt Nam vẫn thấp hơn của Hàn Quốc (8,9 tỷ USD), Đài Loan (10,1 tỷ USD), Indonesia (1,3 tỷ USD)… Trong khi đó, một số nước trong khu vực ghi nhận sự bán ròng như Thái Lan (2,7 tỷ USD), Malaysia (0,6 tỷ USD), Philippines (0,5 tỷ USD)…
7 rủi ro thách thức chính
Mặc dù hoạt động kinh tế trong nước trong tháng 5 ghi nhận sự tăng trưởng tích cực, tuy nhiên, theo TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả, vẫn còn 7 rủi ro, thách thức lớn, cụ thể như sau:
Có thể nhận thấy 5 rủi ro, thách thức chính từ bên ngoài vẫn hiện hữu như: (i) rủi ro địa chính trị và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn vẫn còn phức tạp, khó lường (đặc biệt là căng thẳng Nga - Ukraina và biện pháp trừng phạt, trả đũa giữa phương Tây và Nga khó đoán định, có tác động tiêu cực đến kinh tế toàn cầu và cả Việt Nam); (ii) rủi ro tài khóa (nợ công, thâm hụt ngân sách) tăng, giá cả, lạm phát dù giảm nhưng còn ở mức cao; (iii) sự đổ vỡ của một số ngân hàng tại Mỹ, Thụy Sỹ làm tăng rủi ro thị trường tài chính toàn cầu; (iv) kinh tế Trung Quốc dù phục hồi song chưa bền vững, chưa tạo được sự lan tỏa tới kinh tế thế giới; (v) thiên tai, lũ lụt, biến đổi khí hậu ảnh hưởng tới khả năng phục hồi kinh tế. Những rủi ro, thách thức này tiếp tục tác động tiêu cực đến xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng, du lịch quốc tế và thị trường tài chính - tiền tệ của Việt Nam.
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 5/2023 tăng 2,2% so với tháng trước và tăng nhẹ 0,1% so với cùng kỳ (cùng kỳ năm trước tăng 10,7%). Tuy nhiên, tính chung 5 tháng đầu năm 2023, chỉ số IIP ước giảm 2% so với cùng kỳ (cùng kỳ năm 2022 tăng 8,1%), cho thấy hoạt động sản xuất công nghiệp tiếp tục khó khăn.
Nguyên nhân chủ yếu do kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm, lạm phát, lãi suất còn ở mức cao, khiến nhu cầu đầu tư, tiêu dùng suy giảm, tác động tiêu cực đến thương mại và FDI.
Hệ quả là, số lượng đơn đặt hàng và quy mô đơn hàng từ các thị trường XK chủ lực và truyền thống vẫn giảm; làm suy yếu lĩnh vực công nghiệp, sản xuất xuất khẩu.
Cụ thể, ngành chế biến, chế tạo giảm 2,5% so với cùng kỳ năm trước, làm giảm 1,7 điểm % vào mức tăng chung; ngành khai khoáng giảm 3,6%, làm giảm 0,5 điểm %. Trong khi đó, ngành sản xuất và phân phối điện tăng 0,8%, đóng góp 0,1 điểm %, ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,3%, đóng góp 0,1 điểm %.
Đáng chú ý, một số ngành công nghiệp quan trọng ghi nhận mức suy giảm đáng kể so với cùng kỳ năm trước: sản xuất xe có động cơ (-10,1%), sản xuất phương tiện vận tải khác (-5,6%), sản xuất giấy và các SP từ giấy (-8,5%), sản xuất trang phục (-8,3%), sản xuất kim loại (-5,5%)….
Trong 5 tháng đầu năm 2023, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 262,5 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm trước; trong đó xuất khẩu đạt 136,2 tỷ USD, giảm 11,6%; nhập khẩu đạt 126,4 tỷ USD, giảm 17,9%. Mức giảm xuất khẩu đã chậm hơn so với lũy kế 4 tháng (xuất khẩu lũy kế 4 tháng năm 2023 giảm 13% - theo Tổng cục Hải quan) do một số thị trường xuất khẩu chính có tín hiệu phục hồi như EU (xuất khẩu tháng 5 tăng 25,1%), Nhật Bản (xuất khẩu tháng 5 tăng 5,2%).
Tính chung 5 tháng, xuất khẩu suy giảm ở hầu hết các mặt hàng chủ lực, có tỷ trọng cao như: Điện thoại các loại và linh kiện (chiếm 15,5%, -16%); Điện tử, máy tính và linh kiện (chiếm 14,9%, -9,8%); Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác (chiếm 12,2%, -5,1%); Hàng dệt, may (chiếm 9,0%, -17,8%); Giày dép (chiếm 6,0%, -13,3%) chủ yếu là do nhu cầu của Mỹ, EU giảm mạnh.
Điểm sáng xuất khẩu là một số sản phẩm nông sản và phương tiện vận tải tăng mạnh, như gạo (chiếm 1,5%, +52%), rau quả (chiếm 1,4%, +32%), phương tiện vận tải và phụ tùng (chiếm 4%, +13,4%).
Nhập khẩu theo đó cũng giảm mạnh, trong đó thị trường nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam là Trung Quốc (chiếm 34,3% tổng nhập khẩu, - 13,5%), Hàn Quốc (chiếm 16,1%, -26,8%) và ASEAN (chiếm 13,7%, - 15,2%).
Hoạt động xuất nhập khẩu suy giảm chủ yếu là do: (i) các doanh nghiệp chủ động giảm nhập khẩu tư liệu sản xuất trong bối cảnh triển vọng xuất khẩu khó khăn và hàng tồn kho nguyên vật liệu ở mức cao (tồn kho ngành chế biến chế tạo quý I/2023 tăng 19,8%); (ii) giá cả hàng hóa nhập khẩu giảm mạnh hơn xuất khẩu (trong quý I/2023 giá nhập khẩu bình quân giảm 3,3%, trong khi giá xuất khẩu giảm 0,3%); (iii) chi phí logistics còn cao khiến một số mặt hàng xuất khẩu (nông sản, lương thực...) của Việt Nam kém cạnh tranh hơn các quốc gia khác.
Việc nhập khẩu giảm mạnh hơn xuất khẩu khiến thặng dư thương mại tiếp tục tăng lên, đạt 9,8 tỷ USD (so với mức +7,6 tỷ USD trong 4 tháng - theo Tổng cục Hải quan), góp phần ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối, nhưng cũng cho thấy sức cầu sản xuất còn yếu trong bối cảnh đơn hàng xuất khẩu chưa phục hồi.
Lũy kế đến ngày 20/5/2023, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam ước đạt 10,86 tỷ USD, giảm 7,3% (thấp hơn so với mức giảm 17,9% của 4 tháng đầu năm), chủ yếu là do vốn đăng ký bổ sung chỉ đạt 2,28 tỷ USD (giảm 59,4% so với cùng kỳ). Trong khi đó, vốn đăng ký cấp mới tăng 27,8% (đạt 5,26 tỷ USD), tăng 66,4% về số dự án; vốn góp mua cổ phần đạt 3,32 tỷ USD (tăng 67,2%).
Tổng vốn FDI đăng ký kém khả quan chủ yếu do: (i) Kinh tế toàn cầu khó khăn hơn, bất ổn gia tăng; (ii) số lượng các dự án có quy mô lớn (từ 50 triệu USD trở lên) đăng ký trong 5 tháng đầu năm giảm đáng kể so với cùng kỳ năm ngoái; (iii) tâm lý chờ đợi để đánh giá những thay đổi chính sách mới của một số nhà đầu tư (như Thuế tối thiểu toàn cầu sẽ được áp dụng từ năm 2024, thuế carbon dự kiến áp dụng tại Châu Âu vào tháng 10/2023).
Tính tới ngày 20/5/2023, giải ngân vốn FDI đạt 7,65 tỷ USD, giảm nhẹ 0,8% so với cùng kỳ, do các nhà đầu tư tiếp tục tâm lý thận trọng, trong bối cảnh kinh tế quốc tế còn khó khăn, đơn hàng xuất khẩu chưa phục hồi.
Thu ngân sách nhà nước (NSNN) trong 5 tháng đầu năm 2023 đạt 769.600 tỷ đồng, bằng 47,5% dự toán, giảm 6% so với cùng kỳ 2022 (trong đó, thu nội địa, thu từ dầu thô và thu từ xuất nhập khẩu giảm lần lượt là 2,9%; 12,1% và 20%). Đây là tháng thứ 3 liên tiếp thu NSNN suy giảm (tính riêng tháng 5, thu ngân sách giảm 22,9% so với tháng 5/2022, tháng 4 giảm 16,7%, trong khi tháng 3 chỉ giảm 5,6%), phản ánh tình hình khó khăn của doanh nghiệp, cũng như tình hình xuất - nhập khẩu giảm, đang ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn thu ngân sách.
Nguồn thu NSNN giảm, đang là thách thức đối với chính sách tài khóa mở rộng (giãn, hoãn, giảm thuế, phí, tiền thuê đất…) trong bối cảnh chi NSNN vẫn tiếp tục tăng lên (đặc biệt là từ ngày 1/7 mức lương cơ bản và các khoản phụ cấp cho một số đối tượng được điều chỉnh tăng).
Chi NSNN trong 5 tháng đầu năm đạt 653.100 tỷ đồng, bằng 31,5% dự toán năm, tăng 10,9% so với cùng kỳ 2022 (chi thường xuyên tăng 5,6%; chi đầu tư phát triển bằng 21,6% dự toán năm, tăng 35,5%). Tuy thu NSNN giảm nhưng NSNN vẫn thặng dư 116.500 tỷ đồng trong 5 tháng đầu năm, chủ yếu là do tỷ lệ chi đầu tư phát triển tuy đã cải thiện nhưng vẫn ở mức thấp so với mục tiêu kế hoạch.
Trong 5 tháng đầu năm, hoạt động của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn do vướng mắc về pháp lý, môi trường kinh doanh; vấn đề tài chính; đầu vào và đầu ra; và lao động. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tháng 5 giảm 24,2% so với tháng trước; lũy kế 5 tháng giảm 1,6% so với cùng kỳ năm trước.
Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tháng 5 giảm 38,1% so với tháng trước; lũy kế 5 tháng giảm 7,4% so với cùng kỳ (là tháng giảm thứ 5 liên tiếp trong năm 2023).
Bên cạnh đó, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn tháng 5 giảm 25,1% so với tháng trước; tuy nhiên lũy kế 5 tháng vẫn tăng 20,3% (là tháng tăng thứ 5 liên tiếp trong năm 2023); số doanh nghiệp hoàn tất giải thể tháng 5 giảm 19% so với tháng trước; tuy nhiên lũy kế 5 tháng vẫn tăng 6,5% so với cùng kỳ.
Tín dụng tăng thấp, nợ xấu đang tăng nhưng trong tầm kiểm soát
Đánh giá về tín dụng, báo cáo viết, tín dụng tăng thấp, chỉ đạt 3,05% so với cuối năm trước, thấp hơn nhiều so với mức 8,09% của 5 tháng đầu năm 2022 cho thấy nhu cầu tín dụng còn rất yếu, mặc dù lãi suất cho vay đã tiếp tục được giảm xuống.
Theo NHNN, hiện nay tỷ lệ nợ xấu hệ thống ngân hàng vẫn trong tầm kiểm soát (đến tháng 2/2023, nợ xấu nội bảng khoảng 2,91% và nợ xấu gộp khoảng 5%). Nợ xấu dù tăng nhưng trong tầm kiểm soát, đặc biệt khi Thông tư 02/2023/TT-NHNN (Thông tư 02) cho phép TCTD thực hiện cơ cấu thời hạn trả nợ, không chuyển nhóm nợ trong vòng 1 năm, chính sách này thực hiện đến thời điểm ngày 30/6/2024, mức độ cơ cấu lại cần đáp ứng những điều kiện cụ thể và năng lực tài chính của TCTD.
Thông tư 02 sẽ giúp cho tỷ lệ nợ xấu không bị tăng quá cao, giúp cho doanh nghiệp, bên vay có thể tiếp tục tiếp cận vốn để sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, các TCTD vẫn phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng phù hợp với thực chất khoản vay, theo lộ trình 50% năm 2023 và đủ 100% hết năm 2024. Điều này có ảnh hưởng phần nào đến lợi nhuận của các TCTD nhưng không nhiều do các TCTD cũng đã chủ động tăng trích lập dự phòng trong 3 năm qua và năng lực tài chính khá vững chắc, rủi ro trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) và tín dụng bất động sản (BĐS) cơ bản trong tầm kiểm soát.
Khó khăn, thách thức của doanh nghiệp - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp
Theo TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả, bối cảnh kinh tế vĩ mô quốc tế và trong nước kém khả quan trong 5 tháng đầu năm cùng với những tồn tại của bản thân doanh nghiệp khiến hoạt động của chủ thể chính tham gia nền kinh tế - các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, kéo theo niềm tin vào triển vọng kinh tế vĩ mô và sự phục hồi của doanh nghiệp còn mong manh.
Trong 5 tháng đầu năm, nhiều chỉ tiêu kinh tế phản ánh tình trạng khó khăn của các doanh nghiệp: (i) Chỉ số PMI sản xuất luôn ở mức thu hẹp (dưới 50 điểm) từ tháng 11/2022 đến nay (ngoại trừ tháng 2/2023 ở mức 51,2 điểm, hiện đạt 46,7 điểm tháng 4/2023); (ii) chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 5 tháng đầu năm đều giảm (trừ tháng 2 tăng 7,23%), hết tháng 5 vẫn giảm 2% so với cùng kỳ năm trước; (iii) số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động đạt gần 95.000 doanh nghiệp, giảm 3,7% so với cùng kỳ 2022; số doanh nghiệp rút khỏi thị trường lên đến 88.000 doanh nghiệp, tăng 22,6%; số lượng lao động tại các doanh nghiệp giảm 4,8%. Trong đó, nhiều lĩnh vực, ngành nghề khó khăn nhiều hơn như kinh doanh BĐS, vận tải kho bãi, công nghiệp chế biến - chế tạo.
4 khó khăn chính đối với doanh nghiệp hiện nay
Rà soát tổng thể từ các cuộc khảo sát, các cuộc họp với doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề gần đây, TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả cho biết, doanh nghiệp đang gặp phải 4 khó khăn, vướng mắc chính, cụ thể:
Một là, về vấn đề pháp lý, môi trường kinh doanh, dù đang được quan tâm cải thiện, tháo gỡ dần, nhưng khâu thực thi vẫn chậm và yếu, một phần là do các quy định pháp luật chưa đồng bộ, chưa nhất quán, chưa đủ rõ ràng, nhưng chủ yếu là do nỗi lo sợ trách nhiệm, sợ sai, chưa vì cái chung trong khi năng lực, trình độ của một bộ phận cán bộ, công chức còn hạn chế và khâu phối kết hợp chưa tốt.
Hai là, về vấn đề tài chính, thể hiện qua 3 khía cạnh: (i) về nghĩa vụ thuế và phí. Điều này đã và đang được Quốc hội, Chính phủ hỗ trợ thông qua việc cho phép giãn hoãn tiền thuế, phí, tiền thuê đất năm 2023, đang xem xét giảm 2% thuế VAT; (ii) nghĩa vụ nợ phải trả cho đối tác, khách hàng, nợ đọng lẫn nhau; (iii) khả năng tiếp cận vốn. Trong bối cảnh khó khăn hiện nay, các tổ chức tài chính trở nên thận trọng hơn, khả năng đáp ứng điều kiện vay vốn của bên vay ở mức thấp hơn, nhưng quan trọng hơn là khả năng hấp thụ vốn, nhu cầu vốn ở mức thấp (tín dụng hết tháng 5/2023 chỉ tăng khoảng 3%, thấp hơn nhiều so với mức 8,1% cùng kỳ năm trước).
Kênh huy động vốn từ thị trường cổ phiếu, TPDN vẫn bị thu hẹp (do thị trường chứng khoán phục hồi chậm, còn thị trường TPDN chưa khôi phục được niềm tin), trong khi đó giải ngân đầu tư công dù Chính phủ rất quyết liệt đôn đốc, đã có cải thiện song còn chậm, giải ngân Chương trình phục hồi và các chương trình mục tiêu quốc gia chưa đạt yêu cầu, chưa tạo thành động lực của nền kinh tế….
Khó khăn lớn thứ ba là, cả đầu vào lẫn đầu ra với chi phí đầu vào bao gồm chi phí nguyên vật liệu, chi phí sản xuất, logistics, lãi vay… đang giảm nhưng còn ở mức cao, trong khi đầu ra/nhu cầu bị thu hẹp, đơn hàng giảm mạnh, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, với các mặt hàng chủ lực.
Bốn là, về vấn đề lao động. Thị trường lao động thay đổi sau dịch bệnh, trong khi nhiều doanh nghiệp chưa theo kịp, vẫn xảy ra tình trạng mất cân đối cung - cầu, doanh nghiệp vừa muốn cắt giảm lao động để tiết giảm chi phí vừa muốn giữ lao động để phục hồi sản xuất khi tình hình khả quan hơn; trong khi đó, việc làm, thu nhập bị giảm không chỉ ảnh hưởng đến đời sống người lao động mà còn phát sinh vấn đề an sinh xã hội,…
Một số nguyên nhân chính:
Về khách quan, năm nay, kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, lạm phát, lãi suất dần hạ nhiệt nhưng đang ở mức cao… khiến nhu cầu thương mại, đầu tư, tiêu dùng toàn cầu giảm; trong khi đó, ở trong nước, với một nền kinh tế có độ mở lớn, sức chống chịu còn thấp cùng với những khó khăn, bất cập nội tại,… đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam.
Về chủ quan, chủ yếu đến từ môi trường vĩ mô nội tại và bản thân doanh nghiệp. Nền tảng vĩ mô của chúng ta dù đang khá tốt, nhưng sức chịu đựng của nền kinh tế với các cú sốc bên ngoài còn yếu và “tắc nghẽn” trong khâu thực thi các chính sách, chỉ đạo của Trung ương tại các địa phương, đơn vị dẫn đến việc thực hiện các thủ tục hành chính đôi khi còn chậm trễ, thiếu minh bạch, công khai, giải ngân vốn chậm.
Trong khi đó, bản thân doanh nghiệp bộc lộ nhiều điểm yếu, hạn chế như: (i) Năng lực quản trị còn yếu, năng lực dự báo tình hình hạn chế; (ii) năng lực cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp còn thấp, khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu thấp, mức độ không sâu nên dễ bị thay thế, hoặc cắt bỏ trong bối cảnh khó khăn; (iii) nhiều doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu (một phần là do công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển) trong khi chưa đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; (iv) nhiều doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính quá cao, đầu tư dàn trải; (iv) thiếu chính sách liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI, dẫn đến còn tình trạng vừa thừa – vừa thiếu; (v) chưa tranh thủ, quyết liệt đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và xanh hóa.
Một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp
Về các giải pháp tháo gỡ khó khăn hiện nay, TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả cho rằng, giải pháp hiện nay được đề xuất và đang tháo gỡ nhiều nhưng chưa có tính hệ thống và ưu tiên cụ thể. Do vậy, TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả đề xuất tập trung vào 4 nhóm giải pháp chính sau:
Thứ nhất, cần tháo gỡ kịp thời và chính xác những tồn tại, vướng mắc đã được chỉ ra thời gian qua để cải thiện thực chất môi trường đầu tư, kinh doanh. Những vướng mắc chính hiện nay cần tháo gỡ kịp thời bao gồm vấn đề đăng kiểm, kiểm định xe; phòng cháy, chữa cháy; visa cho du khách và chuyên gia; hoàn thuế GTGT; giải quyết dứt điểm những vụ việc vi phạm về chứng khoán, BĐS thời gian qua; không hình sự hóa các quan hệ kinh tế, quá trình thanh, kiểm tra cần được tổ chức khoa học, có kế hoạch, không trùng lặp...
Thứ hai, tổ chức thực hiện đúng thời hạn và tốt những quyết sách mà Quốc hội, Chính phủ đã ban hành, nhất là từ đầu năm 2022 đến nay. Chẳng hạn, trong gần 3 tháng qua, hàng loạt quyết sách liên quan đến các lĩnh vực y tế, đất đai, bất động sản, xây dựng, tài chính, tín dụng, xuất nhập khẩu… cần được nghiêm túc và quyết liệt tổ chức thực hiện.
Thứ ba, sớm quyết định, ban hành các cơ chế, chính sách bổ sung. Theo đó, với chính sách tiền tệ, cần tiếp tục triển khai quyết liệt, hiệu quả Thông tư 02, Thông tư 03, cần tiếp tục giảm lãi suất cả huy động và cho vay, duy trì hỗ trợ thanh khoản hệ thống TCTD kịp thời và đẩy nhanh cơ cấu lại các TCTD yếu kém.
Với chính sách tài khóa, Chính phủ đã cho phép giãn hoãn thuế, phí, tiền thuê đất (Nghị định 12); cần tiếp tục giảm 2% thuế GTGT, với thủ tục gọn, thực hiện nhanh, kịp thời; cân nhắc gói cho vay trả lương (lãi suất 0%) như đã thực hiện thời dịch COVID-19; nghiên cứu, xem xét chuyển phần còn lại của Chương trình phục hồi 2022 - 2023 sang Quỹ phát triển nhà ở xã hội (mới có thể cho vay lãi suất thấp và nguồn vốn mồi bền vững); nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) và các quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV tại các địa phương. Đặc biệt, mọi quyết sách đều cần được giao trách nhiệm, thời hạn cụ thể, có chế tài phù hợp nếu không thực hiện.
Cuối cùng, bản thân doanh nghiệp cũng cần quyết tâm cơ cấu lại, giảm chi phí, giải quyết đúng các cam kết trả nợ (chấp nhận phải bán tài sản, nếu cần)... Doanh nghiệp cũng cần tính cả bài toán dài hạn hơn như chú trọng quản lý rủi ro, chuyển đổi số và xanh hóa bởi đây cũng là xu thế tất yếu hiện nay.
(Trích đăng từ Báo cáo Kinh tế Vĩ mô tháng 5/2023 của TS. Cấn Văn và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV)