Sáng ngày 6/11, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang đã trình bày Báo cáo về việc thực hiện một số nghị quyết của Quốc hội khóa XIV về giám sát chuyên đề, chất vấn trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV và từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đến kỳ họp thứ 4.
Công tác quy hoạch, đầu tư, tài chính, tiền tệ, tín dụng đạt được nhiều kết quả quan trọng
Về các lĩnh vực kế hoạch và đầu tư; tài chính; ngân hàng, thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương tập trung triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp về công tác quy hoạch, đầu tư, tài chính, tiền tệ, tín dụng và đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Công tác quy hoạch được đẩy mạnh, chất lượng được nâng lên; đã ban hành Quy hoạch tổng thể quốc gia và nhiều quy hoạch ngành, lĩnh vực, tỉnh, phấn đấu hoàn thành phê duyệt các quy hoạch trong năm 2023.
Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội (KTXH), các chính sách hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp được tích cực triển khai, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống người dân.
Đầu tư công được cơ cấu lại theo hướng bảo đảm tập trung có trọng tâm, trọng điểm, không để dàn trải, lãng phí, kém hiệu quả; kỷ luật, kỷ cương trong đầu tư công được tăng cường; giải ngân vốn đầu tư công được đẩy mạnh; thu hút vốn FDI, ODA và vốn vay ưu đãi đạt được nhiều kết quả tích cực.
Đã thành lập 5 Tổ công tác và 26 đoàn công tác của Chính phủ đi kiểm tra, đôn đốc giải ngân vốn đầu tư công, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy sản xuất kinh doanh ở các địa phương.
Kỷ luật tài chính – NSNN được tăng cường, bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, nhất là đối với thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng số; triệt để tiết kiệm chi thường xuyên; kiểm soát chặt chẽ bội chi, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia trong giới hạn cho phép của Quốc hội. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả tích cực.
Chủ động xây dựng các kịch bản, giải pháp điều hành giá phù hợp, sát thực tiễn, góp phần kiểm soát lạm phát. Thực hiện kịp thời, hiệu quả nhiều chính sách miễn giảm, gia hạn thuế, phí, tiền thuê đất để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân.
Chính sách tiền tệ được điều hành chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách khác nhằm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Thị trường tiền tệ, ngoại hối, tỷ giá cơ bản ổn định.
Từ đầu năm 2023, đã 4 lần giảm lãi suất điều hành với mức giảm 0,5-2%; triển khai gói tín dụng 120.000 tỷ đồng cho nhà ở xã hội, 15.000 tỷ đồng cho lâm sản, thủy sản; tập trung vốn tín dụng cho các động lực tăng trưởng, lĩnh vực ưu tiên.
Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu được triển khai theo lộ trình, kế hoạch đặt ra; an toàn hệ thống được bảo đảm; khoanh nợ, cơ cấu lại, giữ nguyên nhóm nợ, gia hạn nợ cho người dân, doanh nghiệp. Đã ban hành tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước; phê duyệt Đề án cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2021 - 2025.
Tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách về thị trường bất động sản
Đối với lĩnh vực công thương, nông nghiệp và phát triển nông thôn; giao thông vận tải; xây dựng; tài nguyên và môi trường, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo tập trung hoàn thiện, ban hành Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia và Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia (Quy hoạch Điện VIII) và đang tập trung hoàn thiện Kế hoạch thực hiện; kịp thời triển khai các giải pháp bảo đảm cung ứng điện và an ninh năng lượng quốc gia; hoàn thành xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về các đập, hồ chứa thủy điện.
Phát triển mạnh thị trường trong nước gắn với mở rộng, đa dạng hóa thị trường quốc tế, nâng cao chất lượng sản phẩm, khai thác hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết; đồng thời đẩy mạnh đàm phán, ký kết các FTA mới; hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực, tham gia đầu tư vào các chuỗi cung ứng toàn cầu.
Chủ động triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm phát triển nông nghiệp hàng hóa, quy mô lớn, hiệu quả cao; kim ngạch xuất khẩu nông sản 10 tháng năm 2023 đạt 43,08 tỷ USD, xuất siêu 9,3 tỷ USD; dự kiến cả năm 2023 đạt 43 triệu tấn lúa, góp phần quan trọng bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô.
Kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy định về đầu tư, quản lý và phát triển rừng. Quyết liệt triển khai nhiều giải pháp tháo gỡ thẻ vàng IUU, kết quả được Ủy ban châu Âu ghi nhận tích cực hơn.
Kịp thời khắc phục hậu quả thiên tai, không để người dân thiếu đói, không có nơi ở. Đã hỗ trợ 4.000 tỷ đồng để xử lý các khu vực sạt lở nghiêm trọng, cấp bách vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Chính phủ đã trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư 6 dự án giao thông trọng điểm quốc gia với tổng vốn đầu tư gần 400.000 tỷ đồng; đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng, hoàn thiện thủ tục khởi công toàn bộ các dự án được Quốc hội thông qua; đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công các dự án giao thông; xây dựng quy chuẩn thiết kế đường bộ cao tốc.
Từ năm 2021 đến nay, đã hoàn thành, đưa vào sử dụng 659 km đường bộ cao tốc, nâng tổng chiều dài đưa vào khai thác là 1.822 km; phấn đấu đến hết năm 2025 hoàn thành và vượt mục tiêu 3.000 km đường cao tốc theo Nghị quyết Đại hội XIII.
Tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách về quản lý phát triển đô thị, xây dựng, quản lý nhà và thị trường bất động sản. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị bền vững. Phê duyệt, tích cực triển khai Đề án xây dựng ít nhất 1 triệu căn nhà ở xã hội giai đoạn 2021-2030; tăng cường kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm về quy hoạch, xây dựng, quản lý, vận hành nhà chung cư…
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tập trung chỉ đạo tổng kết, hoàn thiện, trình Quốc hội dự án Luật Đất đai (sửa đổi); đổi mới chính sách tài chính về đất đai và giá đất. Hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý, sử dụng đất đai từng bước được nâng cao; tình trạng chậm đưa đất đai vào sử dụng ở các địa phương đã có chuyển biến tích cực.
Việc kiểm soát hoạt động khai thác, sử dụng nước, bảo đảm an ninh nguồn nước trong điều kiện biến đổi khí hậu được cải thiện. Đã ban hành Quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và 7 quy hoạch lưu vực sông. Quy hoạch không gian biển quốc gia là quy hoạch khó, nhạy cảm, đang được tập trung xây dựng, hoàn thiện, báo cáo cấp có thẩm quyền để trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Công tác bảo vệ môi trường được chú trọng, nhất là kiểm soát môi trường, nước thải ở các khu công nghiệp, làng nghề, các dự án, cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, xử lý ô nhiễm các lưu vực sông. Công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt có nhiều chuyển biến tích cực; tỉ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý đạt khoảng 96% (vượt chỉ tiêu Quốc hội đề ra là 89%).
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác giải phóng mặt bằng, triển khai thi công của một số dự án hạ tầng trọng điểm, nhất là hạ tầng năng lượng và giao thông còn chậm; chưa ban hành Kế hoạch triển khai Quy hoạch điện VIII, Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn, quy định về hoạt động lấn biển.
Việc phát triển đô thị thông minh còn hạn chế; thị trường bất động sản còn khó khăn. Chất lượng môi trường ở một số nơi còn chậm được cải thiện; kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường ở các làng nghề, cơ sở sản xuất, lưu vực sông, đô thị còn những bất cập…
Y tế vẫn còn tình trạng thiếu thuốc, lao động mất việc làm tăng cục bộ
Về các lĩnh vực khoa học và công nghệ; giáo dục và đào tạo; văn hóa, thể thao và du lịch; y tế; lao động - thương binh và xã hội; thông tin và truyền thôn, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo sửa đổi đồng bộ cơ chế quản lý, tài chính, phương thức đầu tư, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy phát triển thị trường khoa học công nghệ, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam xếp hạng 46/132, tăng 2 bậc so với năm 2022.
Khuyến khích liên kết, thúc đẩy nghiên cứu và phát triển, ứng dụng và đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp; rà soát, sắp xếp, đẩy mạnh cơ chế tự chủ của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
Hoàn thiện hành lang pháp lý thực hiện đổi mới, phát triển giáo dục và đào tạo; triển khai hiệu quả Chương trình Giáo dục phổ thông 2018; chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học. Kịp thời ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, các cơ sở giáo dục ngoài công lập gặp khó khăn do đại dịch COVID-19.
Đẩy mạnh triển khai hiệu quả cơ chế tự chủ đại học nhưng phải xử lý các vấn đề về đất đai; tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ trong cơ sở giáo dục đại học; hỗ trợ khởi nghiệp cho học sinh sinh viên. Ưu tiên đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam được cả xã hội quan tâm. Nguồn lực đầu tư cho văn hóa từng bước được khơi thông; di sản văn hoá tiếp tục được bảo tồn và phát huy giá trị. Phong trào thể thao quần chúng được thúc đẩy mạnh mẽ; thể thao thành tích cao đạt nhiều kết quả tích cực.
Du lịch từng bước phục hồi sau đại dịch COVID-19; nhiều lễ hội truyền thống, chương trình văn hoá nghệ thuật được tổ chức thành công với hình thức đa dạng, nội dung phong phú, hấp dẫn, góp phần lan toả những giá trị tốt đẹp và đáp ứng nhu cầu thụ hưởng của nhân dân.
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng, đặc biệt là đã kiểm soát hiệu quả đại dịch COVID-19. Tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế; chất lượng khám, chữa bệnh từng bước được cải thiện, ứng dụng nhiều kỹ thuật hiện đại. Hệ thống y tế dự phòng, y tế cơ sở được củng cố, từng bước giảm tải các bệnh viện tuyến trung ương, tuyến cuối. Cơ bản hoàn thiện cơ chế quản lý về an toàn thực phẩm.
Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách người có công, bảo đảm an sinh xã hội và hỗ trợ người dân, doanh nghiệp; đời sống nhân dân được cải thiện tốt hơn. Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm còn 2,93%.
Công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em, giáo dục thanh, thiếu niên, chăm lo và phát huy vai trò người cao tuổi, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ... được quan tâm. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2023 tăng 12 bậc, từ vị trí 77 lên vị trí 65.
Kết nối cung cầu lao động được tăng cường; kịp thời hỗ trợ người lao động bị mất việc, giảm giờ làm; tỉ lệ thất nghiệp khu vực thành thị năm 2023 ước khoảng 2,76% (chỉ tiêu Quốc hội giao là dưới 4%).
Thực hiện hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia và Đề án 06; sớm xây dựng, vận hành các cơ sở dữ liệu quốc gia.
Triển khai cung cấp dịch vụ viễn thông di động tại các thôn/bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, khu vực biên giới, hải đảo. Năm 2023 phấn đấu hoàn thành mục tiêu 100% xã có điều kiện KTXH đặc biệt khó khăn, xã đảo, huyện đảo có đài truyền thanh hoạt động. Đã cơ bản hoàn thành sắp xếp các cơ quan báo chí theo quy hoạch; kịp thời chấn chỉnh, xử lý tình trạng "báo hoá" tạp chí, biểu hiện "tư nhân hoá" báo chí.
Tuy nhiên, các lĩnh vực này vẫn còn những hạn chế, tồn tại, khó khăn đúng như các vị đại biểu Quốc hội đã nêu như: Đầu tư cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo còn khiêm tốn; chất lượng giáo dục đào tạo, dạy nghề có mặt còn hạn chế; tình trạng thừa thiếu cục bộ giáo viên mầm non, phổ thông vẫn chưa được giải quyết dứt điểm; cải cách sách giáo khoa chưa đáp ứng yêu cầu.
Phát triển văn hoá còn chậm so với phát triển kinh tế; phát triển công nghiệp văn hoá, du lịch chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Tình trạng thiếu thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế cục bộ chưa được khắc phục triệt để; chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh ở tuyến cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu; chưa xử lý dứt điểm các dự án bệnh viện chậm tiến độ.
Số người lao động mất việc làm, giảm giờ làm, rút bảo hiểm xã hội một lần gia tăng cục bộ. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) quý III/2023 là 7,86%; trong đó tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên khu vực thành thị là 10,35%; khu vực nông thôn là 6,60%. Tỷ lệ thanh niên không có việc làm và không tham gia học tập, đào tạo ở khu vực nông thôn là 13,5%, khu vực thành thị là 9,8%; nữ thanh niên không có việc làm và không tham gia học tập, đào tạo là 13,9%; nam là 10,4%.