Kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng mạnh nhờ cầu nội địa gia tăng và dòng vốn FDI được duy trì

M.Hà| 25/09/2019 16:45
Theo dõi Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ trên

(thitruongtaichinhtiente.vn) - Trong báo cáo Cập nhật Triển vọng Phát triển Châu Á (ADO) 2019 công bố sáng nay (ngày 25/9), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) lưu ý rằng mặc dù tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội có chậm lại trong nửa đầu năm 2019, song Việt Nam vẫn duy trì mức tăng trưởng vững vàng trong năm nay và năm sau, bất chấp môi trường bên ngoài suy yếu.  Dự báo, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục duy trì tăng trưởng mạnh trong năm 2019 và năm 2020 với mức tương ứng là 6,8% và 6,7%.

Buổi họp báo của ADB về tình hình phát triển kinh tế Việt Nam ngày 25/9

Giám đốc Quốc gia của ADB tại Việt Nam, ông Eric Sidgwick, nhận định: “Mặc dù tăng trưởng xuất khẩu bị chững lại do xung đột thương mại leo thang giữa Mỹ và Trung Quốc kéo theo sự sụt giảm của thương mại toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng mạnh nhờ cầu nội địa tiếp tục gia tăng và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được duy trì. Triển vọng về tiêu dùng trong nước tiếp tục sáng sủa, được hỗ trợ bởi sự gia tăng thu nhập, mở rộng việc làm, và lạm phát duy trì ở mức thấp”. 

Việc ký kết hiệp định thương mại tự do với Liên minh Châu Âu gần đây và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương hứa hẹn sẽ mở ra khả năng tiếp cận thị trường cho các hoạt động thương mại và đầu tư lớn hơn. Sửa đổi gần đây trong Luật Đầu tư công sẽ giúp cải thiện hoạt động đầu tư công bằng cách đẩy nhanh các quy trình, đơn giản hóa thủ tục, và tạo điều kiện để giải ngân vốn đầu tư công nhanh hơn.

Cũng theo đánh giá của ADB, dịch vụ tài chính ngân hàng đạt mức tăng trưởng ấn tượng 8,0% trong nửa đầu năm 2019. Lạm phát bình quân giảm từ 3,3% trong sáu tháng đầu năm 2018 xuống 2,6% trong nửa đầu năm nay, đây là mức lạm phát bình quân sáu tháng thấp nhất trong 3 năm trở lại đây. Giá xăng dầu giảm, tăng trưởng tín dụng và cung tiền chậm lại, và tỉ giá tương đối ổn định đã bù lại phần nào áp lực lạm phát từ việc tăng giá điện và giá lương thực. Về cán cân đối ngoại, tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá giảm từ 17,1% trong 6 tháng đầu năm 2018 xuống 7,2% trong cùng kỳ năm nay. Tăng trưởng nhập khẩu hàng hoá trong cùng kỳ cũng giảm tốc, nhưng chỉ giảm từ 10,7% xuống khoảng 8,9%, làm cho thặng dư cán cân vãng lai thu hẹp một nửa, từ mức tương đương 3,5% GDP một năm trước đây xuống khoảng 1,7%. Trong khi đó, cán cân vốn đạt thặng dư ước tính 7,9% GDP, nhờ dòng vốn FDI và vốn đầu tư gián tiếp ròng đều tăng. Thặng dư cán cân thanh toán tổng thể tương đương 8,5% GDP, cao hơn một chút so với mức 8,4% của năm trước. Dự trữ ngoại hối tăng, đến tháng 6/2019, ước tính tương đương ba tháng nhập khẩu. Chính sách tiền tệ và tín dụng tiếp tục xu hướng thận trọng trong nửa đầu năm nay, tốc độ tăng trưởng cung tiền (M2) giảm từ 16,6% một năm trước đây xuống khoảng 10,6%, cùng với tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng giảm từ 15,7% xuống khoảng 14,2%. Sáu tháng đầu năm 2019 cũng cho thấy những tiến triển trong cải cách hệ thống ngân hàng. Tỉ lệ nợ xấu (NPL) được chính thức công bố trên bảng cân đối kế toán của hệ thống ngân hàng giảm từ 2,1% hồi tháng 6/2018 xuống 1,9% vào tháng 6/2019. Đồng thời, tỉ lệ nợ xấu tổng thể (bao gồm cả nợ xấu do các ngân hàng nắm giữ, nợ xấu hiện nay nằm tại Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam (VAMC) và nợ của các ngân hàng được coi là có nguy cơ cao trở thành nợ xấu) giảm từ 6,9% vào giữa năm 2018 xuống 5,9%. Ngoài ra, mục tiêu của Chính phủ đề ra cho tất cả các ngân hàng đáp ứng yêu cầu đủ vốn theo Basel II vào năm 2020 cũng đạt được một số tiến bộ nhất định. Đến tháng 7/2019, có 9/35 NHTM trong nước đã thực hiện được yêu cầu trên.

Một số triển vọng và rủi ro

Trong khi ADB giữ nguyên dự báo tăng trưởng cho Việt Nam trong năm nay và năm tới, báo cáo cũng nêu lên những rủi ro đáng kể đối với dự báo tăng trưởng kinh tế. Căng thẳng thương mại tiếp tục leo thang giữa Mỹ và Trung Quốc và sự suy giảm của nền kinh tế toàn cầu có thể khiến thương mại toàn cầu sụt giảm, gây tác động tiêu cực tới hoạt động thương mại và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu được dự báo sẽ giảm trong giai đoạn trước mắt. Tuy nhiên, nhu cầu trong nước gia tăng sẽ bù đắp cho sụt giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. Qua đó, tăng trưởng GDP dự kiến vẫn nhất quán với dự báo tăng 6,8% trong năm nay và 6,7% trong năm 2020 như trong báo cáo ADO 2019.

Về phía cầu, tiêu dùng nội địa tiếp tục cho thấy triển vọng tích cực. Tiêu dùng cá nhân sẽ tiếp tục tăng nhờ lạm phát thấp, nhiều công ăn việc làm, kinh tế tăng trưởng cao mặc dù tốc độ tăng trưởng giảm nhẹ. Những nỗ lực không ngừng của chính phủ nhằm cải thiện môi trường kinh doanh cùng với xếp hạng tín nhiệm quốc gia gần đây được cải thiện sẽ kích thích đầu tư tư nhân. Nếu xung đột thương mại Mỹ-Trung tiếp tục leo thang, nhiều doanh nghiệp sản xuất có thể cân nhắc Việt Nam như một cơ sở sản xuất thay thế, tạo thêm động lực mới cho luồng vốn đầu tư FDI. Hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu mới được ký kết cũng như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương hứa hẹn sẽ tiếp tục mở cửa tiếp cận thị trường cho thương mại và đầu tư. Do đó, các dòng vốn FDI sẽ tiếp tục mạnh mẽ trong thời gian tới, với minh chứng là 13,1 tỷ USD đã được cam kết trong 8 tháng đầu năm 2019. Luật đầu tư công mới được sửa đổi sẽ cải thiện đầu tư công thông qua việc đẩy nhanh quy trình và thủ tục và giúp đẩy nhanh tiến độ giải ngân.

Xét theo ngành kinh tế, triển vọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tiếp tục tích cực, song nông nghiệp sẽ bị chậm lại. Chỉ số quản trị mua hàng trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo trong 8 tháng đầu năm vẫn trên 50, đây là dấu hiệu tích cực. Sản lượng khai khoáng sẽ tiếp tục phục hồi, và ngành xây dựng dự báo sẽ duy trì tăng trưởng mặc dù tín dụng cho lĩnh vực bất động sản bị thắt chặt hơn. Khu vực dịch vụ cũng sẽ tiếp tục tăng trưởng cùng với sự mở rộng trong bán lẻ và bán buôn để đáp ứng nhu cầu trong nước, và lượng du khách gia tăng sẽ đạt được mục tiêu 15 triệu lượt khách vào cuối năm nay.

Dự báo lạm phát bình quân được điều chỉnh xuống 3,0% trong năm 2019 và 3,5% trong năm 2020. Lạm phát bình quân tính theo năm được kiềm chế ở mức 2,6% trong 8 tháng đầu năm 2019, mức thấp nhất trong ba năm gần đây. Áp lực lạm phát trong ngắn hạn có thể đến từ việc điều chỉnh tăng một số giá cả do nhà nước quản lý, nhu cầu trong nước mạnh, tiền lương tối thiểu tăng, và giá lương thực có thể tăng do bệnh dịch tả lợn châu Phi và hạn hán nghiêm trọng. Tuy nhiên, áp lực này có thể bị kiềm chế bởi giảm tốc độ tăng cung tiền và tăng trưởng tín dụng.

Thặng dư tài khoản vãng lai được dự báo sẽ thu hẹp nhiều hơn so với dự báo trong báo cáo ADO 2019 cho cả năm nay và năm sau. Thu nhập từ xuất khẩu sẽ tăng chậm hơn so với dự báo trước đây, thêm nữa nhập khẩu cũng giảm tốc độ chậm hơn so với dự kiến do tiêu dùng nội địa và đầu tư vẫn ở mức cao, đặc biệt với khả năng một số doanh nghiệp sản xuất có thể di chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam. Kiều hối có thể bị ảnh hưởng bởi suy giảm kinh tế toàn cầu, tiếp tục làm cho thặng dư tài khoản vãng lai giảm sút. Dự báo thặng dư tài khoản vãng lai được điều chỉnh giảm xuống tương đương 2% GDP trong năm nay, và 1,8% GDP trong năm 2020. Chính phủ tiếp tục theo đuổi chính sách củng cố tài khoá. Mặc dù cần phải đẩy nhanh tiến độ giải ngân chi đầu tư song chính phủ vẫn tiếp tục tăng cường nỗ lực thu ngân sách và kiểm soát chặt hơn đối với các khoản chi tiêu không cần thiết để kiềm chế bội chi và cải thiện tính bền vững của nợ công. Mặc dù lạm phát chỉ ở mức thấp, chính phủ sẽ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ thận trọng trong năm 2019 và giữ tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức mục tiêu 14%.

Các ngân hàng thương mại tiếp tục chịu áp lực đáp ứng chuẩn mực Basel II vào năm 2020. Tín dụng cũng sẽ tiếp tục bị hạn chế đối với các lĩnh vực đầu tư rủi ro cao như bất động sản. Rủi ro đối với những dự báo trên là đáng kể. Rủi ro lớn nhất từ bên ngoài sẽ là xung đột thương mại Mỹ - Trung tiếp tục gia tăng và thương mại toàn cầu tiếp tục sụt giảm. Nếu như xung đột thương mại – chủ yếu thông qua việc tăng thuế quan – biến thành cạnh tranh phá giá đồng tiền thì nó sẽ mang lại nhiều hệ lụy lớn hơn đối với thị trường tài chính quốc tế và tạo ra các rủi ro mới đối với nền kinh tế Việt Nam.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng mạnh nhờ cầu nội địa gia tăng và dòng vốn FDI được duy trì
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO