Khả năng hoàn thành mục tiêu giải ngân vốn ngân sách trung ương đến năm 2025 là rất khó khăn khi kết quả giải ngân từ năm 2022 đến tháng 6/2023 chỉ đạt 18,9% so với kế hoạch trung hạn; vốn sự nghiệp tính đến ngày 30/6/2023 mới giải ngân được 9,17% kế hoạch vốn của năm...
Đó là thực tế triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về các Chương trình mục tiêu quốc gia do Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, Phó Trưởng Đoàn giám sát của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm báo cáo tại chương trình làm việc sáng nay (ngày 30/10), trong khuôn khổ Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV đang diễn ra.
Trình bày Báo cáo của Đoàn giám sát của Quốc hội về việc triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về các Chương trình mục tiêu quốc gia, ông Y Thanh Hà Niê Kđăm cho biết, đây là lần đầu tiên Quốc hội giám sát giữa kỳ. 3 chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025 có phạm vi rộng, cùng với những yêu cầu đổi mới, Đoàn giám sát đã giải quyết nhiều nhiệm vụ, khối lượng công việc lớn với cách tiếp cận và cách làm mới phù hợp. Việc xác định nội dung trọng tâm là giám sát, đánh giá tiến trình chính sách và công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện là hướng đi đúng đắn, nhất là trong bối cảnh các chương trình đang bị chậm tiến độ theo mục tiêu, yêu cầu đề ra.
Kết quả xây dựng nông thôn mới chưa thực sự bền vững
Báo cáo kết quả Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội cho biết, chương trình có tổng kinh phí tối thiểu là 196.332 tỷ đồng. Ngoài chính sách chung, chương trình còn có 6 chuyên đề trọng tâm và thực hiện trên địa bàn 63 tỉnh, thành phố cả nước.
Kế thừa và phát huy kết quả các giai đoạn trước, phong trào xây dựng nông thôn mới của cả nước đã bám sát mục tiêu “gắn với thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, quá trình đô thị hoá, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững”. Tổ chức bộ máy thực hiện chương trình nông thôn mới được kiện toàn từ trung ương đến địa phương, cơ bản giữ ổn định như giai đoạn trước. Hệ thống văn bản thực hiện từ trung ương đến địa phương được ban hành tương đối đầy đủ, có đổi mới, cơ bản phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Một số địa phương đã chủ động nghiên cứu, ban hành các chính sách đặc thù, có cách làm hay, mô hình tốt, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và người dân. Công tác lập kế hoạch, phân bổ vốn đảm bảo nguyên tắc và đúng theo quy định.
Tính đến ngày 30/6/2023, cả nước có 6.022/8.177 xã (73,65%) đạt chuẩn nông thôn mới, 1.331 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 176 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; có 263/644 đơn vị cấp huyện (40,8%) được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới; 19 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Bên cạnh những mặt đã đạt được, cũng có không ít những hạn chế, bất cập trong quá trình giám sát. Đó là hệ thống các văn bản chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn thực hiện của trung ương và địa phương còn nhiều, ban hành chậm, chưa đồng bộ, còn có vướng mắc nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Nguồn vốn đầu tư phát triển ngân sách trung ương phân bổ chậm, tỷ lệ đối ứng còn cao gây khó khăn cho một số địa phương, nhất là các tỉnh nghèo.
Tiến độ giải ngân vốn ngân sách trung ương năm 2022 và giai đoạn 2021-2025 còn chậm so với yêu cầu, nhất là vốn sự nghiệp, đến ngày 30/6/2023 mới giải ngân được 9,17% kế hoạch vốn của năm. Kết quả xây dựng nông thôn mới chưa đồng đều, chưa thực sự bền vững; một số địa phương thiếu quyết liệt và có dấu hiệu chững lại trong chỉ đạo thực hiện xây dựng nông thôn mới; cơ chế lồng ghép nguồn vốn ngân sách trung ương của các chương trình mục tiêu để hỗ trợ xây dựng nông thôn mới trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn, các huyện nghèo còn hạn chế, chưa thực sự hiệu quả.
Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững còn tình trạng chạy theo thành tích
Về Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025 được Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 24/2021/QH15, có tổng vốn tối thiểu là 75.000 tỷ đồng, gồm 7 dự án với 11 tiểu dự án, được thực hiện trên địa bàn cả nước.
Báo cáo kết quả giám sát của Đoàn giám sát cũng đánh giá, giai đoạn 2021-2025, mục tiêu về giảm nghèo cao hơn so với các giai đoạn trước, gắn với các mục tiêu phát triển bền vững nhưng địa bàn, đối tượng thực hiện chương trình lại tập trung vào các “lõi nghèo” khó khăn nhất của cả nước.
Kết quả triển khai thực hiện chương trình đã cơ bản bám sát mục tiêu “thực hiện giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững”; tuân thủ các nguyên tắc, giải pháp theo Nghị quyết 24. Nhiều địa phương có mô hình hay, cách làm sáng tạo đạt hiệu quả trong quá trình tổ chức thực hiện.
Đến tháng 9/2022, đây là chương trình đầu tiên trong 3 chương trình mục tiêu quốc gia cơ bản hoàn thành việc xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện ở cấp trung ương. Việc lập, giao kế hoạch vốn thực hiện chương trình tuân thủ theo quy định pháp luật. Chương trình đã thực hiện cơ bản đạt mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số hằng năm theo Nghị quyết 24 đề ra; bước đầu cải thiện mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân. Các địa phương đã sử dụng nguồn lực của chương trình thực hiện các mục tiêu giám nghèo bền vững, nhất là tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng – xã hội tại các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo.
Tuy vậy, việc ban hành văn bản của chương trình vẫn chậm so với quy định Nghị quyết 24. Một số văn bản đã ban hành có khó khăn vướng mắc, địa phương kiến nghị cần phải sửa đổi, bổ sung. Việc phân bổ ngân sách trung ương còn chậm; một số địa phương bố trí nguồn vốn đối ứng thấp; giải ngân vốn ngân sách trung ương năm 2022 đến ngày 31/1/2023 chỉ đạt 35,63% kế hoạch; giải ngân vốn đầu tư công năm 2022 kéo dài sang năm 2023 đạt 53% kế hoạch; giải ngân vốn đầu tư công ước đến 31/8/2023 đạt 31,9% kế hoạch.
Việc phát huy quyền làm chủ, sự tham gia tích cực, chủ động của cộng đồng và người dân vào công tác giảm nghèo còn chưa thực chất. Tại các huyện nghèo mới chỉ quan tâm đánh giá việc giảm tỷ lệ hộ nghèo, chưa đánh giá thực chất mức tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm.
Bên cạnh đó, trong công tác giảm nghèo nói chung, còn có tình trạng một số địa phương, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, việc để phấn đấu được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới đã “chạy theo thành tích” giảm nghèo đa chiều nhưng trên thực tế nhiều tiêu chí quan trọng về chất lượng cuộc sống của người dân chưa được cải thiện, nâng cao một cách thực chất, bền vững sau khi đạt chuẩn nông thôn mới. Kết quả giảm tỷ lệ hộ nghèo hằng năm chưa thực sự phản ánh đầy đủ các tác động của chương trình...
Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi chưa thực chất
Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được Quốc hội phê duyệt Chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020, có kinh phí tối thiểu làm tròn là 137.664 tỷ đồng, gồm 10 dự án, 14 tiểu dự án thực hiện trên địa bàn 49 tỉnh.
Kết quả giám sát cho thấy, quá trình triển khai thực hiện đã bám sát mục tiêu tổng quát của chương trình là “giảm nghèo nhanh, bền vững, giảm dần số xã, thôn đặc biệt khó khăn, sắp xếp ổn định dân cư, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đồng bộ, thu hẹp dần khoảng cách mức sống, thu nhập so với bình quân chung của cả nước...”.
Chương trình thực hiện đã tích hợp trên 118 văn bản chính sách dân tộc ở giai đoạn trước, bước đầu khắc phục được tình trạng manh mún, dàn trải để tập trung nguồn lực, ưu tiên đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, giải quyết những vấn đề cấp thiết về kinh tế, xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là vùng đặc biệt khó khăn. Đến tháng 6/2023, các văn bản chỉ đạo, điều hành triển khai thực hiện cơ bản đã hoàn thành với khối lượng khá lớn, các bộ, ngành trung ương đã ban hành khoảng 58 văn bản, ở mỗi địa phương ban hành từ 40-50 văn bản liên quan.
Tình hình giải ngân năm 2023 đã có tiến bộ, nhất là vốn đầu tư công. Giải ngân vốn đầu tư công trung ương đến tháng 6/2023 đạt 22%, ước đến tháng 9/2023 đạt 52%, nhiều địa phương giải ngân trên 60%. Mặc dù còn nhiều khó khăn trong triển khai thực hiện, nhưng theo Báo cáo của Chính phủ tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số năm 2022 giảm 3,4%, đạt và vượt mục tiêu kế hoạch giao; nhiều chỉ tiêu về hạ tầng, kinh tế - xã hội khác cơ bản đều đạt so với mục tiêu của chương trình.
Mặc dù vậy, Đoàn giám sát đã chỉ rõ, việc ban hành các văn bản quản của chương trình còn chậm. Mô hình chỉ đạo, điều hành còn bất cập, chưa được kiện toàn, đồng bộ, thống nhất giữa trung ương và địa phương, giữa các địa phương với nhau. Đến tháng 6/2023 vẫn còn 21 tỉnh chưa thành lập Tổ Công tác. Việc phân bổ vốn trung ương chậm, dẫn đến đối tượng thực hiện của một số chính sách, ở một số địa phương có sự thay đổi, không còn phù hợp. Kết quả giải ngân đạt thấp, từ năm 2022 đến tháng 6/2023 giải ngân khoảng 18,9% so với kế hoạch trung hạn, do đó, chương trình khó có thể hoàn thành mục tiêu giải ngân đến hết năm 2025.
Theo báo cáo, chương trình đến nay đã đạt và vượt nhiều chỉ tiêu đề ra, xong trên thực tế, Đoàn giám sát nhận định, đời sống đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp rất nhiều khó khăn, kinh tế, xã hội phát triển chậm; tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo và nguy cơ tái nghèo cao; khoảng cách giàu nghèo có xu hướng gia tăng; khả năng đạt mức thu nhập bình quân tăng 2 lần so với 2020, giảm 50% số xã đặc biệt khó khăn, hoàn thành các chỉ tiêu về thiếu đất ở, đất sản xuất, quy hoạch dân cư và nhiều chỉ tiêu khác đến năm 2025 ở vùng dân tộc thiểu số theo mục tiêu của chương trình rất khó khăn.