Cơ chế định giá điều chuyển vốn nội bộ của các ngân hàng thương mại: Hạn chế trong triển khai và những đề xuất

PGS, TS. Đặng Văn Dân| 23/01/2019 17:39
Theo dõi Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ trên

(thitruongtaichinhtiente.vn) - Cơ chế định giá điều chuyển vốn nội bộ là công cụ đang được các ngân hàng thương mại (NHTM) áp dụng nhằm phát huy tính ưu việt và đảm bảo nền tảng quản trị vốn hiệu quả hơn.

Bài nghiên cứu cung cấp khung lý luận tổng quát về cơ chế định giá điều chuyển vốn nội bộ, nhấn mạnh đến lợi ích của cơ chế trong công tác đánh giá, phân bổ thu nhập, chi phí ngân hàng chính xác và công cụ quản trị rủi ro hiệu quả. Tuy nhiên, việc ứng dụng cơ chế quản lý này cũng còn nhiều vấn đề hạn chế cần quan tâm tháo gỡ. Bài viết đề xuất một số giải pháp phù hợp với thực tế triển khai cơ chế.

Hệ thống ngân hàng được xem là xương sống đối với nền kinh tế của một quốc gia. Hoạt động ngân hàng gắn liền với vai trò điều phối dòng tiền, thúc đẩy sử dụng tốt nhất các nguồn lực tài chính của cộng đồng và quản lý dòng vốn chảy vào các lĩnh vực của nền kinh tế nơi giá trị đầu tư được tối đa hóa. Việc quản lý một hệ thống phức tạp như ngân hàng, tạo nền tảng cho việc kinh doanh hiệu quả và làm cơ sở để ra quyết định vận hành là điều mà các nhà điều hành ngân hàng bắt buộc phải quan tâm.

Một trong những nền tảng quan trọng nhất để hướng tới yếu tố hiệu quả trong hoạt động của các NHTM được hỗ trợ bởi cơ chế định giá điều chuyển vốn nội bộ (Funds Transfer Pricing - FTP). Thông qua chính sách xây dựng chi tiết về chi phí của từng ngân hàng trong việc cung cấp các loại sản phẩm dịch vụ ngân hàng và xây dựng giá cả hợp lý, các NHTM có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu hoặc ứng phó hiệu quả với các tình huống thay đổi trên thị trường tài chính ngân hàng. Ngày nay, quá trình quản lý cấu trúc giá nội bộ của các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng thông qua cơ chế FTP là hết sức quan trọng đối với chính sách kinh doanh của các NHTM và thường là một chiến lược trọng yếu cho sự tồn tại và phát triển liên tục của ngân hàng.

Một cách dễ hình dung, sản phẩm cơ bản nhất của NHTM gồm có cho vay và tiền gửi, được ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Số tiền mà khách hàng gửi vào ngân hàng được chia thành nguồn dự trữ để phục vụ khách hàng khi nhu cầu phát sinh và nguồn để đầu tư tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Các ngân hàng với tư cách là tổ chức kiếm lợi nhuận, sẽ tập trung nguồn lực của họ vào công cụ lãi suất bởi vì đây là kênh kiếm thu nhập quan trọng nhất gắn liền với bản chất hoạt động của họ. Do đó, các ngân hàng phải tìm sự cân bằng giữa thu nhập cận biên đối với các khoản cho vay và chi phí cận biên đối với các khoản tiền gửi để đảm bảo rằng việc phục vụ khách hàng là đem lại hiệu quả về mặt kinh tế (Dermine, 2011). Cơ chế FTP ra đời dựa trên nguyên tắc căn bản này.

Cơ sở lý luận

Để dễ hiểu hơn về cơ chế FTP, trước hết cần nói qua về nguyên tắc quản lý vốn phân tán. Đây là cơ chế quản lý vốn từ các đơn vị quản lý đặt tại trung tâm các chi nhánh trong hệ thống ngân hàng. Theo đó, mỗi chi nhánh hoạt động như một ngân hàng con, trên nguyên tắc độc lập và tự chủ trong sử dụng nguồn và tạo lập nguồn, việc nhận hỗ trợ từ trụ sở chính chỉ diễn ra trong bối cảnh các ngân hàng thiếu hụt và không thể cân đối. Hiệu quả kinh doanh cũng như các vấn đề về rủi ro đều do chính chi nhánh chịu trách nhiệm. Như vậy việc định giá các sản phẩm là có thể khác nhau giữa các chi nhánh trong cùng một hệ thống, phản ánh thông qua lời lỗ trực tiếp có được với khách hàng.

Theo thời gian, công nghệ và quản trị về ngân hàng phát triển, nguyên tắc quản lý vốn tập trung cho ngân hàng bắt đầu phát triển và ngày càng được các ngân hàng áp dụng triệt để, cơ chế FTP đã phát huy được hiệu quả của mình. Cơ chế FTP vận hành thông qua trung tâm quản lý vốn đặt tại trụ sở chính của mỗi ngân hàng, trên cơ sở các đơn vị kinh doanh trong hệ thống ngân hàng đó sẽ thực hiện mua bán vốn với trụ sở chính thông qua trung tâm quản lý vốn. Dưới góc độ của các trung tâm quản lý vốn, cơ quan này sẽ đứng ra mua lại toàn bộ tài sản nợ từ chi nhánh (ví dụ như các khoản chi nhánh huy động từ khách hàng) và bán vốn để qua đó chi trả cho toàn bộ tài sản có (điển hình như các khoản chi nhánh cho vay khách hàng). Việc mua bán vốn này hình thành nên cơ sở chi phí và doanh thu của chi nhánh, từ đó thu nhập sẽ được xác định thông qua chênh lệch mua bán với trụ sở chính. Trong quá trình này, những vấn đề về thanh khoản, tỷ giá hay lãi suất sẽ được chuyển toàn bộ về trụ sở chính ngân hàng cho việc quản lý tập trung. Quy trình của cơ chế FTP trong ngân hàng dưới góc độ trụ sở chính được mô tả tại sơ đồ.

Hình: Quy trình hoạt động của cơ chế FTP của ngân hàng. Nguồn: Tham khảo từ mô hình của Nataliya Pushkina, 2013

Mặc dù khái niệm cơ bản của cơ chế FTP là khá đơn giản, tuy vậy việc thực hiện, quản lý và giải thích các kết quả có thể tương đối phức tạp và đòi hỏi các ngân hàng phải phân bổ nguồn lực triển khai. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã chỉ ra một số điểm yếu tồn tại trong cách thức tổ chức của một số ngân hàng trước rủi ro thị trường và do đó đã nâng tầm quan trọng của FTP (Turner, 2008). Rõ ràng qua khủng hoảng đã cho thấy rằng nguồn tài trợ dựa trên thị trường không phải lúc nào cũng luôn sẵn có để đáp ứng tốt nhu cầu thanh khoản của ngân hàng.

Để vận hành theo cơ chế FTP, trụ sở chính của mỗi ngân hàng định kỳ sẽ chịu trách nhiệm xác định và thông báo giá mua bán vốn tới tất cả các đơn vị kinh doanh trong hệ thống. Sau khi nhận được thông báo, căn cứ trên kế hoạch được giao và năng lực triển khai hiện tại, kết hợp với bảng giá mua bán vốn thì các đơn vị kinh doanh sẽ đưa ra chiến lược thực hiện tại đơn vị mình. Mỗi thời kỳ mức giá mua bán sẽ được xây dựng căn cứ vào diễn biến tình hình thị trường, căn cứ vào từng sản phẩm hướng đến từng đối tượng khách hàng, từng ngành nghề kinh doanh hay từng loại kỳ hạn, đồng tiền tạo lập nguồn hay sử dụng vốn để điều chỉnh cho phù hợp.

Lợi ích của cơ chế

Các ngân hàng cần áp dụng cơ chế FTP để đảm bảo rằng báo cáo tài chính của họ phản ánh tình hình thực tại của ngân hàng, thông qua các số liệu quan trọng trên bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Một trong những phương pháp quan trọng nhất đo lường lợi nhuận của ngân hàng là thu nhập lãi thuần (NII). Thu nhập lãi thuần từ trước đến nay trong kinh doanh ngân hàng là động lực lớn nhất cho lợi nhuận của sản phẩm, thường chiếm tới 80% tổng doanh thu của ngân hàng (Coffey, 2001). Báo cáo kết quả kinh doanh của bất kỳ ngân hàng nào thể hiện thu nhập lãi và chi phí lãi phát sinh trong kỳ kế toán và thường không phân tích chi tiết về các thành phần cụ thể này.

Trong trường hợp không có một cơ chế FTP được vận hành, lúc đó sẽ xuất hiện vấn đề rằng người ta sẽ lầm tưởng tất cả các khoản tiền gửi vào ngân hàng thì ngân hàng chỉ đang chịu chi phí. Có thể nói, việc xem xét tất cả các khoản tiền gửi như là một khoản chi phí sẽ không chính xác, khi mà việc cấp một khoản vay cho một khách hàng đòi hỏi tiền mà nguồn này thường đến từ tiền gửi thu được từ một khách hàng khác. Khi tính toán giá cả cho mỗi khoản vay, cơ chế FTP sẽ thiết lập một mức giá nội bộ trên mỗi khoản tiền gửi trong một ngân hàng và được khấu trừ như một chi phí vốn cho khoản vay. Vì vậy, thông qua hệ thống FTP thì ngân hàng đã hoàn toàn có những thông tin rõ ràng về lợi nhuận của các khoản vay, các khoản tiền gửi và các sản phẩm khác để từ đó có những điều chỉnh trong cơ cấu tài sản nợ và tài sản có sao cho hiệu quả nhất. Không dừng lại ở đó, cơ chế hữu hiệu này còn cho phép các ngân hàng đo lường lợi nhuận của các ngành nghề kinh doanh khác nhau, các đối tượng khách hàng khác nhau (Kocakulah & Egler, 2006). Từ việc đánh giá được đặc điểm và hiệu quả hoạt động của từng chi nhánh khác nhau trong hệ thống mà từ đó cho phép ban điều hành của ngân hàng đưa ra quyết định chiến lược về giá cả sản phẩm, phát huy được tốt nhất lợi thế của từng chi nhánh ở từng địa bàn. Ngoài ra, cơ chế FTP cuối cùng còn giúp đo lường hiệu quả quản lý tài sản và nợ của trung tâm chuyên trách của mỗi ngân hàng, vốn được phụ trách bởi Ủy ban ALCO (ủy ban điều hành tài sản nợ - tài sản có) trong mỗi ngân hàng.

FTP còn được đề xuất như một kênh mà qua đó một hệ thống quản lý rủi ro có thể được sử dụng cho các NHTM. Các phòng ban của trụ sở chính sẽ chịu trách nhiệm về vấn đề kiểm soát thanh khoản, rủi ro lãi suất hay các vấn đề khác nói chung xuất phát từ thị trường để nhượng lại trách nhiệm kinh doanh chính cho các chi nhánh, tập trung tối đa hoá lợi nhuận mà trách nhiệm không bị chồng chéo, nguồn lực được tập trung thay vì phải phân tán. Cơ chế FTP phát huy được vai trò trong việc khuyến khích hoặc hạn chế cho vay vào những ngành nghề kinh doanh, những nhóm đối tượng khách hàng nhằm cơ cấu lại danh mục cho vay của ngân hàng, hướng đến giải quyết bài toán rủi ro tín dụng.
Sau cùng, cơ chế FTP với đặc tính giúp phân bổ thu nhập - chi phí một cách khách quan và công bằng cho từng chi nhánh ngân hàng để qua đó xác định chính xác mức độ đóng góp vào thu nhập chung của cả ngân hàng, đã được xem là công cụ hữu hiệu giúp các nhà điều hành ngân hàng khơi gợi động lực kinh doanh của từng chi nhánh trong hệ thống. Ở đó, người đứng đầu mỗi đơn vị chịu trách nhiệm hoặc hưởng thành quả lao động căn cứ trên những quyết định mà họ đưa ra.

Những hạn chế trong quá trình triển khai của các NHTM Việt Nam

Cũng tương tự như hệ thống ngân hàng các nước, cơ chế FTP cũng đã được các ngân hàng Việt Nam áp dụng rộng rãi. Nhưng ở các nước, một ngân hàng hầu như chỉ bao gồm một trụ sở chính cùng các chi nhánh phụ thuộc có đủ vốn điều lệ theo luật định và nằm gọn trong một phân khúc thị trường, hoạt động gần như độc lập với trụ sở chính để qua đó phát huy tác dụng của cơ chế FTP. Còn thực tế ngân hàng ở Việt Nam có những khác biệt, mạng lưới chi nhánh của từng ngân hàng dày đặc, dưới đó có thêm mạng lưới các phòng giao dịch phủ khắp, trải dài trên nhiều phân khúc thị trường khác nhau và đặc thù cơ chế FTP đòi hỏi tính hệ thống cao nên khó phát huy tối đa tác dụng.

Việc có nhiều chi nhánh và phủ rộng mạng lưới hoạt động trên nhiều địa bàn không tương đồng như tại Việt Nam là trở ngại trong áp dụng cơ chế FTP, khi mà ý nghĩa cốt lõi của cơ chế là định giá mua bán vốn để áp dụng cho toàn hệ thống và như vậy trong trường hợp này thì mức giá sẽ rất khó để xây dựng. Nếu phải điều chỉnh để hài hoà thì vô tình phá vỡ cơ chế hệ thống, gây ra sự không đồng tình. Lấy ví dụ một chi nhánh ngân hàng hoạt động tại TP. Hồ Chí Minh chắc chắn phải có những khác biệt với đơn vị hoạt động tại Nghệ An hay Thái Bình, đồng thời cũng không đồng nhất với chi nhánh trên địa bàn Cà Mau hay Bạc Liêu. Cơ chế FTP về nguyên tắc sẽ phát huy lợi ích trong trường hợp đảm bảo tính cân đối hài hoà và phù hợp ở mỗi địa bàn kinh doanh, tuy nhiên lại là thách thức lớn đối với thị trường Việt Nam.

Thực tế đã ghi nhận nhiều trường hợp trụ sở chính ngân hàng áp đặt giá mua bán vốn cho các chi nhánh trong hệ thống, gây ra những trở ngại về mặt tâm lý và từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả hoạt động chung. Giá mua vốn của trụ sở chính quá thấp hay giá bán vốn quá cao khiến các chi nhánh phải tìm nhiều cách để giải quyết bài toán thu nhập và chi phí, khoả lấp các khoản chênh lệch và từ đó dẫn đến những sai sót hay bất hợp lý trong cơ cấu tài sản nguồn vốn của chi nhánh.

Một khía cạnh quan sát được từ thực tế hoạt động của các chi nhánh ngân hàng, đối với chương trình ưu đãi mà theo đó chi nhánh được hưởng một mức chênh lệch cố định do trụ sở chính quy định đối với từng sản phẩm, đã xuất hiện tình trạng các chi nhánh chọn sai mã chương trình ưu đãi trên hệ thống tác nghiệp nhằm được hưởng lợi ích cao hơn. Hoặc có tình trạng chi nhánh chủ động cho khách hàng tất toán các khoản vay trước hạn để chuyển sang giải ngân theo các chương trình ưu đãi mà bản thân chi nhánh thu được lợi ích cao hơn, thậm chí xét duyệt các khách hàng vào diện được ưu đãi không đúng quy định để chi nhánh hưởng chênh lệch cao. Hệ quả là lợi nhuận của hệ thống ngân hàng không hề tăng, trái lại có thể giảm, lợi ích này được chuyển sang cho chi nhánh. Nguyên nhân cốt lõi của tình trạng này là ở nhiều ngân hàng, chức năng giám sát việc thực hiện cơ chế FTP giữa chi nhánh với trụ sở chính bị buông lỏng, hoặc chưa được thực thi trong thực tế.

Hạn chế về mặt kỹ thuật trong xây dựng cơ chế FTP quan sát được tại các ngân hàng đó là các ngân hàng chưa xây dựng đường cong lãi suất FTP để làm cơ sở xác định giá mua bán vốn. Theo đó, trong cơ chế FTP, để xác định được mức giá mua bán vốn điều quan trọng là cần phải xác định được đường cong lãi suất FTP với những thông số được tính toán sát với diễn biến của thị trường. Thông thường từ mức lãi suất cơ sở trên đường cong lãi suất FTP, cơ quan quản lý nguồn vốn sẽ tính toán ra mức bù trừ để đảm bảo tính phù hợp với đặc điểm và tính chất từng nguồn vốn. Tuy nhiên hiện nay đường cong lãi suất FTP chỉ được xây dựng từ lãi suất huy động bình quân theo biểu lãi suất công bố của ngân hàng. Việc lựa chọn sai phương pháp hoặc thiếu đầu tư cho mô hình xác định đường cong lãi suất trong cơ chế FTP sẽ gây ra tác động trực tiếp đến sự chính xác và tính tin cậy của khung giá FTP được xây dựng.

Một số giải pháp

Trong thời gian sắp tới, các NHTM Việt Nam vẫn tiếp tục định hướng triển khai thực hiện cơ chế FTP với vai trò quản trị tập trung của trụ sở chính và các đơn vị kinh doanh tập trung vào việc phát triển khách hàng và bán các sản phẩm dịch vụ. Để cơ chế phát huy hiệu quả tối ưu, có một số giải pháp được đề ra cho các ngân hàng:

Thứ nhất, xây dựng được mức giá mua bán vốn nội bộ phù hợp cho các đơn vị kinh doanh và lựa chọn mô hình định giá sao cho phù hợp nhất với nguyên tắc hoạt động của cơ chế FTP.

Để đạt được hiệu quả cao đòi hỏi bộ phận quản trị nguồn vốn của trụ sở chính ngân hàng phải nghiên cứu ban hành biểu giá mua bán vốn nội bộ chi tiết cho từng nhóm đối tượng khách hàng, từng ngành nghề kinh doanh hay xa hơn là phù hợp với từng địa bàn kinh doanh để đánh giá đúng rủi ro, chi phí bỏ ra và thu nhập đạt được. Các ngân hàng có thể thông qua cơ chế FTP để truyền đạt định hướng kinh doanh đến các đơn vị trong hệ thống, là công cụ hỗ trợ đắc lực cho bài toán kinh doanh và quản trị rủi ro danh mục tín dụng ngân hàng. Mục tiêu của cơ chế FTP đảm bảo hài hoà cho lợi ích tổng thể và lợi ích cho các đơn vị kinh doanh trong ngân hàng, hướng đến sự đồng thuận của tất cả các đơn vị trong hệ thống.

Các kỹ thuật để xác định mức giá phù hợp liên quan đến việc lựa chọn đường cong lãi suất FTP có thể từ đơn giản đến phức tạp, phụ thuộc vào lựa chọn của ngân hàng sao cho luôn phù hợp với tình hình thị trường và đặc điểm riêng có của ngân hàng mình, đảm bảo tính cân đối với nguồn vốn và tài sản của từng ngân hàng trên thị trường vốn. Ngân hàng nên lựa chọn nhiều đường cong lãi suất FTP cho mỗi đơn vị tiền tệ có trong danh mục đầu tư của ngân hàng vì mỗi đơn vị tiền tệ luôn có những biến đổi riêng về lãi suất gắn liền.

Thứ hai, đầu tư cho công nghệ để ứng dụng cơ chế FTP đạt được hiệu quả cao nhất.

Việc quản trị tài sản nợ - có được xây dựng dựa trên những kịch bản tiên đoán về thị trường, do đó việc cần đến trợ giúp của yếu tố công nghệ kỹ thuật cao là điều bắt buộc phải thực hiện. Theo đó các ngân hàng cần đầu tư cho các công nghệ tiên tiến nhất một cách nghiêm túc thông qua các tổ chức phát triển công nghệ có uy tín trên thế giới. Việc đưa vào áp dụng công nghệ tiên tiến mới cần có lộ trình phù hợp, nên bắt đầu bằng những lần chạy thử nghiệm và kiểm tra kết quả trong một thời gian nhất định để đưa ra đánh giá, trước khi áp dụng toàn hàng để hạn chế thấp nhất những rủi ro có thể phát sinh. Đặc biệt lưu ý trong thời kỳ được xem là bùng nổ cách mạng công nghệ, việc không chủ động đầu tư cho nền tảng này có thể khiến ngân hàng thụt lùi lại phía sau so với các đối thủ cạnh tranh khác.

Thứ ba, chú trọng đầu tư vào nguồn nhân lực để vận hành cơ chế một cách ổn định và bền vững.

Với việc xây dựng và vận hành hiệu quả cơ chế FTP, đòi hỏi nguồn nhân lực của ngân hàng phải có kiến thức tốt về ngân hàng, công nghệ và thuật toán để đủ khả năng vận hành hệ thống. Để có được những nhân sự chất lượng, các ngân hàng có thể đào tạo các cán bộ hiện có để có nghiệp vụ chuyên sâu hơn hoặc cũng có thể tuyển dụng mới các ứng viên có tiềm năng ở bên ngoài.

Thứ tư, sử dụng hiệu quả hơn các công cụ giám sát thực hiện cơ chế và có biện pháp chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động của các đơn vị kinh doanh trong ngân hàng. 

Như đã trình bày thì hiện tại cơ chế FTP chưa được các ngân hàng giám sát chặt chẽ trong khâu thực hiện, để lộ những lỗ hổng cho những sai phạm phát sinh. Do đó các ngân hàng trước hết phải quan tâm đúng mức tới tầm quan trọng của cơ chế FTP, từ đó thiết lập được trật tự, ý thức tuân thủ chấp hành của các đơn vị có mặt trong cơ chế vận hành. Chỉ khi đảm bảo được yếu tố thưởng – phạt rõ ràng và nghiêm túc tuân thủ, hiệu quả trong triển khai cơ chế FTP của ngân hàng mới được đảm bảo và nâng cao.

Kết luận

Các hoạt động của các NHTM phụ thuộc vào các khoản tiền gửi và các khoản vay đến từ khách hàng, hình thành nên các cơ sở giao dịch và được quản lý hiệu quả qua các công cụ của ngân hàng. FTP là cơ chế hữu ích để cân bằng tiền gửi và khoản vay mà NHTM đang có. Mục tiêu của một cơ chế FTP hợp lý là giá cả sản phẩm, quản lý lợi nhuận, quản lý thanh khoản và quản lý bảng cân đối kế toán. Rõ ràng FTP có lợi thế như là một hệ thống quản lý, nhưng nó cũng có điểm yếu được thể hiện rõ trong giai đoạn kinh doanh hiện tại của ngân hàng. Nếu được thực hiện một cách thích hợp, cơ chế FTP của mỗi ngân hàng có thể cải thiện đáng kể hiệu quả và năng suất cho chính ngân hàng.

Tài liệu tham khảo:
- Coffey, J. J. (2001), What is a fund transfer pricing?, ABA Bank Marketing, 33(9), 48. 
- Dermine, J. (2011), Fund transfer pricing for deposits and loans, foundation and advanced, INSEAD, Fontainebleau. 
- Kocakulah, M. C., & Egler, M. (2006),Funds Transfer Pricing: How to Measure Branch Profitability, Journal of Performance Management, 19(1), 45. 
- Pushkina, N. (2013), A simple funds transfer pricing model for a commercial bank, Master Thesis, University of the Witwatersrand.
- Turner, S. (2008), Funds transfer pricing: cracking the code on deposit valuation, Novantas, White Paper Series.

 

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Cơ chế định giá điều chuyển vốn nội bộ của các ngân hàng thương mại: Hạn chế trong triển khai và những đề xuất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO