Sửa đổi Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN) là rất cần thiết trong thời điểm hiện nay để khắc phục các bất cập, chồng chéo; cũng như có giải pháp phù hợp khắc phục tình trạng chuyển giá, phòng chống trốn thuế, thất thu thuế, hạn chế hiệu quả các hành vi dịch chuyển lợi nhuận làm xói mòn cơ sở thuế.
Bộ Tài chính vừa có Công văn số 5949/BTC-CST gửi các bộ, ngành, cơ quan liên quan để lấy ý kiến hồ sơ dự án Luật Thuế TNDN. Dự án này dự kiến sẽ được cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XV (tháng 10/2024) và được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV (tháng 5/2025).
Thuế TNDN là sắc thuế đứng thứ hai về thu ngân sách nhà nước
Theo Bộ Tài chính, sau hơn 15 năm thực hiện, Luật Thuế TNDN hiện hành đã đi vào cuộc sống, tác động tích cực đến nhiều mặt kinh tế xã hội. Luật đã được hoàn thiện đúng định hướng cải cách hệ thống thuế, phí và lệ phí; góp phần quan trọng trong việc tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, đảm bảo công bằng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
Trong 15 năm áp dụng, Luật xóa bỏ triệt để sự phân biệt đối xử chính sách thuế TNDN giữa các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp (DN); thực hiện giảm nghĩa vụ thuế cho DN thông qua việc điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế TNDN phổ thông; điều tiết được hầu hết các khoản thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng cơ sở thuế phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, hội nhập quốc tế; động viên kịp thời, hợp lý các nguồn lực cho NSNN.
Trong quá trình cải cách chính sách thuế TNDN, Luật Thuế TNDN đã tiếp tục thực hiện giảm mức thuế suất phổ thông thuế TNDN từ 25% xuống còn 22% từ 1/1/2014, riêng DN có quy mô nhỏ được áp dụng mức 20% từ ngày 1/7/2013. Từ ngày 1/1/2016, mức thuế TNDN phổ thông áp dụng cho mọi loại hình DN là 20% đã góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy các lĩnh vực trong nền kinh tế phát triển theo các định hướng ưu tiên, đặc biệt là quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng.
Việc áp dụng các chính sách ưu đãi thuế TNDN cùng với các biện pháp cải cách có liên quan khác đã góp phần cải thiện môi trường đầu tư trong nước, đặc biệt trong việc thu hút nguồn vốn cho phát triển kinh tế xã hội. Các quy định của Luật Thuế TNDN được hoàn thiện theo hướng dễ hiểu, dễ thực hiện, đảm bảo đồng bộ với các pháp luật có liên quan nên góp phần quan trọng trong việc nâng cao tính minh bạch trong các hoạt động kinh tế, lành mạnh hóa môi trường đầu tư kinh doanh.
Quy mô thu NSNN từ thuế TNDN ngày càng được mở rộng. Theo thống kê của Bộ Tài chính, bình quân giai đoạn 2011-2015, số thuế TNDN không tính thuế TNDN từ dầu thô chiếm 16,05% và tính cả dầu thô là 24,8% tổng thu NSNN; tỷ lệ này trong giai đoạn 2016-2020 lần lượt là 14,6% và 16,9%; giai đoạn 2021-2023 tương ứng là 17% và 19,7%. Xét theo tỷ trọng GDP, quy mô thu NSNN từ thuế TNDN không tính dầu thô, bình quân giai đoạn 2011-2015 đạt 3,3%; giai đoạn 2016-2020 là 2,9% và 2021-2023 là 3,1% GDP. Điều này một lần nữa khẳng định, thuế TNDN là sắc thuế có quy mô động viên ngân sách đứng thứ hai trong hệ thống chính sách thuế của Việt Nam.
Đặc biệt, thời gian qua, chính sách thuế TNDN đã được sử dụng một cách linh hoạt, hiệu quả để hỗ trợ nền kinh tế trong những giai đoạn khó khăn, tăng trưởng chậm. Việc thực hiện các chính sách này đã được cộng đồng DN đánh giá là có tác động tích cực, kịp thời và nhanh chóng phát huy hiệu quả trong thực tiễn.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, quá trình phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế, thực tế triển khai chính sách thuế TNDN cũng bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, như tính ổn định chưa cao, một số nội dung ban hành chưa lường hết được các tác động, ảnh hưởng trên thực tế; một số quy định hiện hành không còn phù hợp với tình hình kinh tế trong và ngoài nước. Tác động của ưu đãi thuế đối với việc phân bổ nguồn lực và thu hút đầu tư có chọn lọc vào các lĩnh vực, địa bàn được khuyến khích còn hạn chế. Pháp luật về thuế TNDN đang bộc lộ “khoảng trống” trong điều chỉnh các vấn đề thuế mới phát sinh trong quá trình hợp tác quốc tế như chống xói mòn nguồn thu và chuyển lợi nhuận; thuế tối thiểu toàn cầu…
Điều này cho thấy việc sửa đổi Luật Thuế TNDN rất cần thiết trong thời điểm hiện nay để thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về cải cách hệ thống chính sách thuế nói chung, thuế TNDN nói riêng, mặt khác khắc phục các bất cập, chồng chéo; cũng như có giải pháp phù hợp khắc phục tình trạng chuyển giá, phòng chống trốn thuế, thất thu thuế, hạn chế hiệu quả các hành vi dịch chuyển lợi nhuận làm xói mòn cơ sở thuế.
Bổ sung quy định chi tiết đối tượng nộp thuế là doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp
Dự án Luật Thuế TNDN sửa đổi gồm 5 chương, 25 điều, bao gồm các nội dung về căn cứ và phương pháp tính thuế; ưu đãi thuế TNDN; bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu… Đối với những nội dung sửa đổi, bổ sung, dự thảo đã bám sát 7 nhóm chính sách tại hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật Thuế TNDN đã được Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội đồng ý thông qua.
Cụ thể, Dự án Luật đã hoàn thiện quy định liên quan đến người nộp thuế và thu nhập chịu thuế TNDN; hoàn thiện quy định về các khoản thu nhập được miễn thuế TNDN; hoàn thiện quy định liên quan đến định các khoản được trừ và không được trừ; điều chỉnh thuế suất thuế TNDN đối với một số nhóm đối tượng phù hợp với bối cảnh mới; hoàn thiện các quy định về ưu đãi thuế TNDN; áp dụng thuế TNDN bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế.
Dự thảo Luật đã luật hóa một số nội dung đang được thực hiện ổn định tại các văn bản dưới luật liên quan đến chính sách này bảo đảm tính minh bạch, ổn định và tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế và cơ quan thuế trong việc tuân thủ pháp luật về thuế TNDN; thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh.
Để thống nhất với việc bổ sung quy định về áp dụng thuế TNDN bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi quy định về phạm vi điều chỉnh tại Điều 1 dự thảo theo hướng “quy định về người nộp thuế, thu nhập chịu thuế, thu nhập được miễn thuế, căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế và ưu đãi thuế TNDN, thuế TNDN bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu”.
Về người nộp thuế, dự thảo đề xuất bổ sung quy định chi tiết đối tượng nộp thuế là DN, đơn vị sự nghiệp trên cơ sở luật hóa quy định đang được thực hiện ổn định tại các văn bản dưới luật; quy định rõ thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam đối với DN nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, bao gồm cả thu nhập từ hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo các hình thức kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng công nghệ số, không phụ thuộc vào địa điểm tiến hành kinh doanh. Bổ sung quy định tuân thủ điều ước quốc tế trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia có quy định khác về cơ sở thường trú nhằm thực hiện các cam kết; bổ sung quy định DN thuộc diện áp dụng thuế TNDN bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu là người nộp thuế TNDN.
Một nội dung đáng chú ý khác tại dự thảo đó là quy định về thu nhập chịu thuế. Theo cơ quan soạn thảo, để thống nhất với đề xuất bổ sung quy định về người nộp thuế, đồng thời luật hóa các văn bản dưới luật, dự thảo quy định chi tiết các khoản thu nhập khác, bao gồm: thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng chứng khoán; thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, từ chuyển nhượng bất động sản của DN kinh doanh bất động sản; thu nhập từ chuyển nhượng dự án đầu tư; thu nhập từ chuyển nhượng, cho thuê, thanh lý tài sản (trừ bất động sản) và các loại giấy tờ có giá…
Dự thảo cũng bổ sung quy định về thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam của DN nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam và của DN nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam mà không phụ thuộc vào địa điểm kinh doanh; sửa đổi quy định về việc nộp thuế với khoản thu nhập của DN Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Bộ Tài chính khẳng định, việc sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến thu nhập chịu thuế theo đề xuất này là giải pháp nâng cao cơ sở pháp lý và minh bạch trong việc xác định các khoản thu nhập chịu thuế của DN.
Ngoài ra, dự thảo Luật cũng bổ sung, sửa đổi các quy định liên quan đến thu nhập được miễn thuế, trong đó bổ sung quy định về thời gian miễn thuế tối đa không quá 3 năm đối với thu nhập từ thực hiện hợp đồng nghiệp cứu khoa học và phát triển công nghệ, thu nhập từ bán sản phẩm làm ra từ công nghệ mới lần đầu tiên áp dụng tại Việt nam; Bổ sung quy định thu nhập miễn thuế của doanh nghiệp từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp có từ 30% số lao động bình quân trong năm trở lên là người khuyết tật, người sau cai nghiện, người nhiễm virus HIV/AIDS; Bổ sung thu nhập của doanh nghiệp từ hoạt động dạy nghề dành riêng cho người đang cai nghiện, người sau cai nghiện… vào thu nhập được miễn thuế.
Bổ sung quy định áp dụng thuế suất ưu đãi 15% đối với thu nhập của các cơ quan báo chí từ các hoạt động báo chí khác ngoài báo in. Riêng báo in tiếp tục áp dụng mức 10% như quy định hiện hành.
Đồng thời, bổ sung thêm 4 khoản thu nhập được miễn thuế gồm: Thu nhập từ chuyển nhượng tín chỉ carbon và chuyển nhượng trái phiếu xanh lần đầu sau khi được phát hành; Khoản hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước, khoản bồi thường của nhà nước theo quy định của pháp luật; Khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản để cổ phần hóa, đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp do nhà nước giữ 100% vốn điều lệ; Thu nhập của đơn vị sự nghiệp công lập từ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công…