Tỷ giá trung tâm theo xu hướng tăng, lãi suất VND liên ngân hàng giảm, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, thị trường chứng khoán đóng cửa trong sắc xanh, Kho bạc Nhà nước huy động thành công toàn bộ trái phiếu Chính phủ chào thầu, FED sẵng sàng điều chỉnh tăng lãi suất, NHTM Úc giữ lãi suất cơ sở đi ngang… là những thông tin kinh tế, tài chính, tiền tệ nổi bật tuần qua
Tổng quan: Lạm phát được kiểm soát ở mức thấp
Chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 6 tăng cao do tác động của giá điện và giá thực phẩm, mục tiêu lạm phát 4,5% có thể đạt được.
Theo Tổng cục Thống kê, giá thực phẩm tăng, giá điện sinh hoạt tăng do thời tiết nắng nóng kéo dài cùng với việc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân, là những nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2023 tăng 0,27% so với tháng trước. So với tháng 12/2022, CPI tháng 6 tăng 0,67% và so với cùng kỳ năm trước tăng 2%. Bình quân 6 tháng đầu năm 2023, CPI tăng 3,29% so với cùng kỳ năm trước.
Cụ thể, trong mức tăng 0,27% của CPI tháng 6/2023 so với tháng trước có 10 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng và 1 nhóm hàng có chỉ số giá giảm. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất với 0,57%, tác động CPI chung tăng 0,19 điểm % (đpt). Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,34%, trong đó giá dịch vụ du lịch trọn gói tăng 1,82% (du lịch trong nước tăng 2,11%; du lịch ngoài nước tăng 1%); nhà khách, khách sạn tăng 0,24% do nhu cầu đi du lịch trong dịp hè tăng cao.
Ngoài ra, các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,26%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,19%, tập trung chủ yếu ở các mặt hàng điện lạnh do thời tiết nắng nóng nên nhu cầu tiêu dùng tăng. Do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong nước vào ngày 1/6, 12/6 và 21/6, giá xăng, dầu trong nước tăng 0,5% (tác động làm CPI chung tăng 0,02 đpt) khiến nhóm giao thông tăng 0,16%, đẩy CPI chung tăng 0,02 đpt.
Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,07% do thời tiết nắng nóng kéo dài, dẫn đến nhu cầu sử dụng điện, nước của người dân tăng lên và EVN điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân từ ngày 4/5.
6 tháng đầu năm 2023, CPI bình quân tăng 3,29% so với bình quân cùng kỳ năm 2022. Nguyên nhân được Tổng cục Thống kê phân tích là do chỉ số giá nhóm giáo dục bình quân 6 tháng đầu năm tăng 7,95% so với cùng kỳ năm trước do một số địa phương đã tăng học phí trở lại từ tháng 9/2022 sau khi đã miễn, giảm học phí trong năm học 2021-2022 (tác động làm CPI tăng 0,49 đpt).
Chỉ số giá nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 6,6% so với cùng kỳ năm trước (tác động làm CPI tăng 1,24 đpt) do giá xi măng, sắt, thép, cát tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào và giá thuê nhà ở tăng cao.
Chỉ số giá nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 3,74% do dịch COVID-19 được kiểm soát, nhu cầu giải trí và du lịch của người dân tăng, tác động làm CPI tăng 0,17 đpt và chỉ số giá vé máy bay tăng 65,72%; giá vé tàu hỏa tăng 32,34%; giá vé ô tô khách tăng 11,12%.
Đặc biệt, giá điện sinh hoạt tăng 3,12% do nhu cầu sử dụng điện tăng và quyết định tăng 3% giá điện của EVN áp dụng từ ngày 4/5, đẩy CPI tăng 0,1 đpt.
Bên cạnh đó, có một số yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI 6 tháng đầu năm 2023, đó là: Bình quân 6 tháng đầu năm 2023, giá dầu hỏa giảm 8,94% so với cùng kỳ năm trước; giá xăng dầu trong nước giảm 18,27% theo biến động của giá thế giới (tác động làm CPI chung giảm 0,66 điểm phần trăm); giá gas trong nước giảm 9,99% theo giá thế giới (tác động làm CPI giảm 0,15 đpt).
Lạm phát cơ bản tháng 6/2023 tăng 0,24% so với tháng trước, tăng 4,33% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 6 tháng đầu năm 2023, lạm phát cơ bản tăng 4,74% so với cùng kỳ năm 2022, cao hơn mức CPI bình quân chung (tăng 3,29%). Sở dĩ lạm phát cơ bản tăng cao hơn CPI bình quân là do bình quân giá xăng dầu trong nước 6 tháng đầu năm giảm 18,27% so với cùng kỳ năm trước, giá gas giảm 9,99%, là yếu tố kiềm chế tốc độ tăng của CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.
Theo Tổng cục Thống kê, lạm phát 6 tháng đầu năm có thể coi là được kiểm soát ở mức thấp, chủ yếu do một số mặt hàng giá xăng dầu và giá gas đều giảm giá mạnh so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, bình quân 6 tháng đầu năm 2023, giá dầu hỏa giảm 8,94% so với cùng kỳ năm trước; giá xăng dầu trong nước cũng giảm 18,27% theo biến động của giá thế giới, tác động làm CPI chung giảm 0,66 đpt. Trong khi đó, giá gas trong nước 6 tháng đầu năm giảm 9,99% theo giá thế giới, tác động làm CPI giảm 0,15 đpt. So với các quốc gia khác, Việt Nam không thuộc nhóm nước có mức lạm phát cao khi lạm phát tháng 6/2023 tăng 2% so với cùng kỳ năm trước.
Dù CPI 6 tháng đầu năm tăng thấp, nhiều chuyên gia cho rằng, lạm phát những tháng cuối năm vẫn có khả năng tăng cao do một số nguyên nhân. Từ tháng 7/2023, lương cơ bản tăng, kéo theo nhu cầu tiêu dùng hàng hóa tăng lên, có thể dẫn đến giá hàng hóa tăng. Yếu tố giá xăng dầu cũng là một ẩn số. Bên cạnh đó, một trong những hàng hóa do nhà nước quản lý là học phí tới đây cũng có khả năng tăng, khi tháng 9 bắt đầu vào năm học mới, nếu điều chỉnh giá học phí sẽ tạo áp lực lên lạm phát.
Thêm nữa, sau đợt tăng giá điện 3% trong tháng 5/2023, tới đây, có khả năng EVN sẽ tiếp tục tăng giá điện để bù chi phí, cũng có thể tác động đến lạm phát. Giá lương thực, thực phẩm cũng thường tăng vào cuối năm. Ngoài ra, yếu tố cầu kéo của các gói hỗ trợ cũng sẽ tăng vào cuối năm. Vì vậy, dù mục tiêu kiểm soát CPI 4,5% có thể đạt được song vấn đề đặt ra là Chính phủ kiểm soát được tốt các mặt hàng do Nhà nước quản lý giá.
Tóm lược thị trường trong nước
Thị trường ngoại tệ: Trong tuần từ ngày 3 - 7/7, tỷ giá trung tâm tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều chỉnh theo xu hướng tăng. Chốt ngày 7/7, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 23.833 VND/USD, tăng 33 đồng so với phiên cuối tuần trước đó. NHNN tiếp tục niêm yết tỷ giá mua giao ngay ở mức 23.400 VND/USD. Tỷ giá bán giao ngay phiên cuối tuần được niêm yết ở mức 24.974 VND/USD, thấp hơn 50 đồng so với trần tỷ giá.
Tỷ giá liên ngân hàng (LNH) tăng mạnh ở đầu tuần nhưng giảm trở lại ở cuối tuần. Chốt phiên ngày 7/7, tỷ giá LNH đóng cửa tại 23.640 VND/USD, tăng 50 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá trên thị trường tự do tiếp tục biến động nhẹ trong tuần qua. Chốt phiên ngày 7/7, tỷ giá tự do tăng 90 đồng ở chiều mua vào và 120 đồng ở chiều bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 23.670 VND/USD và 23.720 VND/USD.
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng: Tuần qua, lãi suất VND LNH biến động theo xu hướng giảm khá mạnh ở hầu hết các kỳ hạn từ 1 tháng trở xuống, chỉ đi ngang ở kỳ hạn qua đêm. Chốt ngày 7/7, lãi suất VND LNH giao dịch quanh mức: Qua đêm là 0,48% (không đổi so với phiên cuối tuần trước đó); 1 tuần là 0,82% (-0,23 đpt); 2 tuần là 1,30% (-0,25 đpt); 1 tháng là 2,85% (-0,12 đpt).
Lãi suất USD LNH ít biến động trong tuần qua. Phiên cuối tuần ngày 7/7, lãi suất USD LNH đóng cửa ở mức: Qua đêm là 4,84% (không thay đổi); 1 tuần là 4,90% (-0,01 đpt); 2 tuần là 5,0% (không thay đổi) và 1 tháng là 5,20% (-0,01 đpt).
Thị trường mở: Trên thị trường mở tuần từ ngày 3 - 7/7, trên kênh cầm cố, NHNN chào thầu ở hai kỳ hạn 7 ngày và 28 ngày, kỳ hạn 7 ngày là 15.000 tỷ đồng và 28 ngày là 6.000 tỷ đồng, với lãi suất cho cả 2 kỳ hạn đều ở mức 4,0% (kể từ ngày 5/7, NHNN ngừng chào thầu kỳ hạn 28 ngày). Không có khối lượng trúng thầu ở cả 2 kỳ hạn. Như vậy, không có khối lượng lưu hành trên kênh này.
NHNN tiếp tục không chào thầu tín phiếu NHNN.
Thị trường trái phiếu: Ngày 5/7, Kho bạc Nhà nước (KBNN) huy động thành công toàn bộ 7.500 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ (TPCP) chào thầu. Đợt phát hành này bao gồm 3 loại kỳ hạn, trong đó kỳ hạn 5 năm huy động được 750 tỷ đồng, 10 năm huy động đượ 3.000 tỷ đồng và 15 năm huy động được 3.750 tỷ đồng. Lãi suất trúng thầu các kỳ hạn lần lượt tại 5 năm là 2,0%, 10 năm là 2,45% và 15 năm là 2,70%, đều không thay đổi so với phiên đầu thầu trước.
Tuần vừa qua có 5.185 tỷ đồng TPCP kỳ hạn 7 năm đáo hạn.
Về kế hoạch đấu thầu tuần này, ngày 12/7, KBNN dự định gọi thầu 5.500 tỷ đồng, trong đó, kỳ hạn 5 năm gọi 500 tỷ đồng, 10 năm gọi thầu 2.000 tỷ đồng, 15 năm gọi 2.500 tỷ đồng và 30 năm gọi 500 tỷ đồng.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 7.005 tỷ đồng/phiên, giảm mạnh so với mức 10.230 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất TPCP tuần qua phân hóa, tăng giảm nhẹ ở các kỳ hạn khác nhau. Chốt phiên ngày 7/7, lợi suất TPCP giao dịch quanh 1 năm là 2,11% (-0,01 đpt); 2 năm là 2,12% (+0 đpt); 3 năm là 2,14% (+0 đpt); 5 năm là 2,14% (-0,01đpt); 7 năm là 2,41% (+0,08 đpt); 10 năm là 2,73% (+0,1 đpt); 15 năm là 2,92% (+0,08 đpt); 30 năm là 3,27% (-0,01 đpt).
Thị trường chứng khoán: Tuần qua, thị trường chứng khoán rung lắc tương đối mạnh, tuy nhiên vẫn đóng cửa tuần trong sắc xanh. Chốt ngày ngày 7/7, VN-Index đứng ở mức 1.138,07 điểm, tăng 17,89 điểm (+1,60%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index giảm nhẹ 1,50 điểm (-0,66%) còn 225,82 điểm; UPCom-Index giảm 1,34 điểm (-1,56%) xuống 84,66 điểm.
Thanh khoản thị trường giảm nhẹ với giá trị giao dịch trung bình đạt khoảng 17.000 tỷ đồng/phiên so với mức 18.000 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại tiếp tục bán ròng mạnh khoảng 2.450 tỷ đồng trên cả 3 sàn trong tuần qua.
Tin quốc tế
Tuần vừa qua, Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) công bố biên bản họp tháng 6/2023, đồng thời nước Mỹ ghi nhận một số chỉ báo kinh tế quan trọng.
Về FED, trong biên bản họp, cơ quan này nhận định lạm phát vẫn đang duy trì ở mức cao, kinh tế vẫn đang tăng trưởng nhanh và thị trường lao động còn thắt chặt. Hệ thống ngân hàng Mỹ vẫn an toàn mặc dù điều kiện tín dụng đang bị thắt chặt và có thể tác động tới kinh tế và lạm phát, nhưng mức độ tác động là chưa chắc chắn.
FED tiếp tục nhấn mạnh mục tiêu toàn dụng nhân công và đưa lạm phát về mức mục tiêu 2% trong dài hạn. Theo đó cơ quan này quyết định giữ lãi suất cơ sở đi ngang ở 5,0% - 5,25%, song cũng sẵn sàng điều chỉnh nếu có rủi ro cản trở quá trình đạt được mục tiêu.
Hiện tại, công cụ của CME dự báo có 92% khả năng FED sẽ tăng lãi suất cơ sở 25 điểm cơ bản trong cuộc họp ngày 26/7.
Liên quan đến thông tin kinh tế, ISM cho biết, chỉ số PMI lĩnh vực sản xuất tại nước Mỹ ở mức 46% trong tháng 6, giảm nhẹ so với mức 46,9% trong tháng 5 và trái với dự báo tăng lên 47,2%. Trái lại, PMI lĩnh vực dịch vụ đã tăng từ 50,3% của tháng 5/2023 lên mức 53,9% trong tháng 6/2023 và tích cực hơn mức 51,3% theo kỳ vọng.
Về thị trường lao động, trong tháng 5 nước Mỹ tạo ra 9,82 triệu cơ hội việc làm, thấp hơn mức 10,32 triệu của tháng 4/2023 và cũng thấp hơn mức 9,93 triệu theo dự báo. Trong tháng 6, quốc gia này tạo ra 209.000 việc làm phi nông nghiệp mới, thấp hơn mức 309.000 của tháng 5 và đồng thời thấp hơn mức 224.000 theo dự báo.
Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ từ mức 3,7% của tháng 5/2023, xuống 3,6% trong tháng 6/2023, khớp với dự báo.
Cuối cùng, thu nhập bình quân theo giờ của người lao động Mỹ tăng 0,4% m/m trong tháng 6, bằng với mức tăng của tháng 5 và tích cực hơn mức 0,3% theo dự báo.
Tuần qua, NHTW Úc (RBA) giữ lãi suất cơ sở đi ngang trong cuộc họp đầu tháng 7/2023. Trong cuộc họp này, RBA cho rằng, lạm phát tại Úc đã đi qua vùng đỉnh, và chỉ số CPI m/m cũng đang giảm tốc. Tuy nhiên, cơ quan này cũng nhấn mạnh áp lực lạm phát vẫn còn lớn và sẽ duy trì dai dẳng trong một thời gian nữa. RBA khẳng định vẫn cảnh giác và ưu tiên đưa lạm phát trở lại mức mục tiêu 2 - 3%, đồng thời kỳ vọng kinh tế tiếp tục tăng trưởng, dù con đường để dẫn tới hạ cánh mềm là hẹp.
Theo đó, RBA giữ lãi suất cơ sở đi ngang ở mức 4,10% và vẫn lưu ý có thể phải thắt chặt chính sách tiền tệ hơn nữa để đưa lạm phát trở lại mục tiêu trong khung thời gian hợp lý, nhưng điều này sẽ phụ thuộc vào dữ liệu kinh tế trong thời gian tới.
Liên quan đến kinh tế Úc, số cấp phép xây dựng nhà tại nước này tăng 20,6% m/m trong tháng 5 sau khi giảm 6,8% ở tháng 4, cao hơn nhiều so với mức tăng 3,1% theo dự báo.
Tiếp theo, doanh số bán lẻ tại Úc chính thức tăng 0,7% m/m trong tháng 5, không thay đổi so với thống kê sơ bộ và khớp với dự báo.
Cuối cùng, cán cân thương mại Úc thặng dư 11,79 tỷ AUD trong tháng 5, cao hơn mức thặng dư 10,45 tỷ AUD của tháng trước đó và đồng thời vượt qua mức thặng dư 10,85 tỷ AUD theo kỳ vọng.
Tỷ giá ngày 7/7:
- USD = 0.912 EUR (-0.73% d/d); EUR = 1.097 USD (0.73% d/d)
- USD = 0.779 GBP (-0.75% d/d); GBP = 1.284 USD (0.75% d/d)
- GBP = 1.170 EUR (0.02% d/d); EUR = 0.854 GBP (-0.02% d/d)
Nguồn: MSB Research