Đội ngũ Năng lượng tái tạo của RSK - Tập đoàn sở hữu hơn 200 công ty môi trường và kỹ thuật tại 40 quốc gia, bao gồm cả khu vực APAC - đang hướng sự chú ý đến khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APAC) - nơi các chính phủ và các ngành công nghiệp đang ngày càng tập trung hơn vào lĩnh vực giúp họ đạt được các mục tiêu môi trường và tiếp tục hướng đến phát triển bền vững trong tương lai.
Định hướng này của RSK cũng phù hợp với Báo cáo năm 2024 của Hội đồng Năng lượng Gió Toàn cầu (GWEC) – báo cáo đã nêu bật tiềm năng của điện gió ngoài khơi đối với khu vực APAC. Cụ thể, báo cáo năm 2024 của GWEC dự đoán một nửa công suất điện gió ngoài khơi sẽ được lắp đặt trên toàn thế giới trong 10 năm tới sẽ tập trung ở khu vực này. Ngoài ra, GWEC đã ước tính, Việt Nam có khoảng 600 GWh điện gió chưa khai thác, gồm 300 GWh điện gió ngoài khơi và 300 GWh điện gió trên bờ.
Trong chia sẻ kiến thức chuyên môn tại các hội nghị về năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và điện gió ngoài khơi tổ chức tại Manila, Đài Bắc, Singapore, Seoul, Busan, TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội, ông Peter Gettinby, Giám đốc mảng Năng lượng Tái tạo của RSK, cho biết: "Chỉ riêng năm 2023, chúng ta đã chứng kiến nhiều sáng kiến đột phá quan trọng tại nhiều thị trường, trong đó có khu vực APAC, có thể kể đến Việt Nam với việc ban hành Quy hoạch Phát triển Điện VIII, đặt ra mục tiêu đưa công suất điện gió ngoài khơi (ở Việt Nam) đạt 6GW vào năm 2030 và đến năm 2050, con số này sẽ lên đến 70-91,5 GW. Dự kiến đến năm 2035, sẽ có khoảng 450 tuabin gió ngoài khơi cỡ lớn vận hành tại Việt Nam, được lắp đặt trong khoảng 10 trang trại gió ngoài khơi móng cố định và một hoặc hai trang trại gió móng nổi.
Ngoài ra, còn có Bangladesh đã công bố kế hoạch xây dựng dự án điện gió ngoài khơi đầu tiên của nước này. Hàn Quốc cấp giấy phép kinh doanh điện gió ngoài khơi (EBL) cho công suất hơn 20,8 GW và đang phát triển hệ thống “kép” cho phát triển điện gió ngoài khơi. Philippines đang tiến tới phiên đấu giá năng lượng xanh đầu tiên cho điện gió ngoài khơi."
"Các ngành công nghiệp và chính phủ có thể tạo ra một môi trường thúc đẩy đổi mới, đầu tư và phát triển chuỗi cung ứng điện gió ngoài khơi mạnh mẽ thông qua việc hợp tác. Trong vài tháng qua, chúng tôi đã trao đổi với các nhà phát triển và cơ quan chính phủ về các kế hoạch và mục tiêu của họ, cũng như những công tác cần thiết để loại bỏ mọi rào cản tiềm ẩn", ông Peter nhấn mạnh.
Bà Jessica Finch Giám đốc Vận hành RSK khu vực APAC chỉ ra việc còn một số rào cản để đạt được các mục tiêu năng lượng tái tạo. Một số thị trường vẫn chưa có chiến lược đưa sản phẩm ra thị trường rõ ràng, đồng thời cần thêm định hướng của chính phủ về các chính sách như quy hoạch không gian biển, cho phép hay chấp thuận để các tổ chức/ doanh nghiệp sử dụng khu vực biển để thực hiện các hoạt động đo đạc, quan trắc, thăm dò, khảo sát nhằm phục vụ lập dự án điện gió ngoài khơi.
Bà Jessica cho biết: "Tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, các chiến lược đưa điện gió ngoài khơi vào thị trường vẫn đang trong giai đoạn sơ khai vì chính phủ các quốc gia cũng cần có thêm thời gian làm quen với quy trình mới phức tạp. Tuy nhiên, với đà phát triển hiện tại, các chính sách hiệu quả để đưa điện gió ngoài khơi vào thị trường hoàn toàn có thể được triển khai nhanh chóng trong tương lai gần”.
Bà Jessica nói thêm rằng, ngoài những khó khăn trong việc đưa điện gió ngoài khơi vào thị trường, thách thức tiếp theo là xây dựng các chính sách công nghiệp hỗ trợ phát triển lĩnh vực này, tập trung vào ba yếu tố: chuỗi cung ứng, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực.
“Các điểm nghẽn trong chuỗi cung ứng - do mất nhiều thời gian xây dựng - đang trở thành trở ngại đáng kể, đặc biệt là ở các thị trường đang phát triển nhanh như APAC. Để giải quyết vấn đề này, cần có phương pháp phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan. Tuy nhiên, yêu cầu nội địa hóa của một số thị trường có thể làm tăng áp lực lên chuỗi cung ứng.
“Phát triển lưới điện vốn là mối lo ngại thường trực trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, cũng như ảnh hưởng đến điện gió ngoài khơi. Do đó, chính sách và quy hoạch của chính phủ sẽ đóng vai rất quan trọng đối với điều đó. Cảng biển và cơ sở hạ tầng cũng có thể trở thành thách thức cản trở sự phát triển của điện gió ngoài khơi.”
Bà Jessica nói thêm rằng ngành điện gió ngoài khơi đang có nhu cầu lao động lớn, mở ra nhiều cơ hội việc làm và chuyển đổi việc làm từ các ngành nghề không còn cần thiết. Theo Báo cáo Lộ trình điện gió ngoài khơi tại Việt Nam của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam có tiềm năng đạt được công suất gió ngoài khơi từ 11GW đến 25GW cho đến năm 2035, có thể tạo ra tới 700.000 việc làm mỗi năm và giảm thiểu được 217 triệu tấn khí thải CO2.
Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra thách thức kép cho khu vực, đó là vừa cần nguồn nhân lực có tay nghề cao, vừa cần giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động có kỹ năng.