Với vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, việc tiên phong trong thực thi ESG (Môi trường, Xã hội và Quản trị) của ngành Ngân hàng sẽ tạo ra sự thúc đẩy lớn trong việc thiết lập những chuẩn mực mới về phát triển bền vững, cải thiện hiệu quả quản trị rủi ro, từ đó nâng cao chất lượng hoạt động và lợi nhuận của chính các tổ chức tín dụng.
Chuyển biến rõ rệt từ nhận thức đến hành động
Thực hành ESG, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững đã trở thành xu thế tất yếu và là mục tiêu mà mọi quốc gia đang hướng tới. Với đặc điểm nội tại của nền kinh tế Việt Nam là một trong các nước có tỷ lệ dư nợ tín dụng trên GDP của Việt Nam cao trên thế giới, nguồn vốn tín dụng đóng một vai trò quan trọng trong việc định hướng thúc đẩy hoạt động sản xuất – kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội.
Phát biểu tại hội thảo “ESG trong ngành Ngân hàng: Thực thi để dẫn đầu” do Báo Đầu tư tổ chức, bà Hà Thu Giang, Vụ Trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước cho biết, nhận thức được xu hướng và tầm quan trọng của việc thực hành ESG, ngành Ngân hàng luôn xác định vai trò tiên phong trong việc “xanh hóa” dòng vốn đầu tư, nâng cao trách nhiệm xã hội hướng tới các mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, trong đó có yêu cầu về áp dụng các tiêu chí ESG.
Đại diện Vụ Tín dụng các ngành kinh tế cho biết, qua tổng kết, đánh giá giai đoạn 2014-2020 và theo dõi từ 2021 đến nay, các TCTD đã nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hành ESG trong hoạt động ngân hàng, từ đó chủ động nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện hệ thống ESG một cách toàn diện hơn.
Đến ngày 30/9/2024, đã có 50 TCTD phát sinh dư nợ tín dụng xanh với dư nợ đạt trên 665.000 tỷ đồng, tăng 7,11% so với cuối năm 2023, chiếm tỷ trọng trên 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm hơn 43%) và nông nghiệp xanh (trên 30%). Các TCTD đã tăng cường quản lý rủi ro về môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng, dư nợ tín dụng được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt 3,28 triệu tỷ đồng, chiếm hơn 22,33% trên tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế, tăng 15,62% so với cuối năm 2023.
Những kết quả trên cho thấy, các giải pháp triển khai của ngành Ngân hàng thời gian qua đã góp phần thúc đẩy quá trình thực hành ESG, "xanh hóa" hoạt động ngân hàng, kịp thời đáp ứng nhu cầu về nguồn vốn để thực hiện các dự án xanh, bền vững, vì lợi ích cộng đồng; đồng thời, nâng cao nhận thức cũng như năng lực thực thi các quy định về bảo vệ môi trường và trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp đang sử dụng nguồn lực từ hệ thống ngân hàng, từ đó điều chỉnh hành vi tiến tới thực hành các tiêu chuẩn ESG, xanh hóa hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững của nền kinh tế. Bà Hà Thu Giang cho biết, với sự định hướng, chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, việc thực thi ESG đã có những chuyển biến rõ rệt từ nhận thức đến hành động.
Chia sẻ góc nhìn thực tiễn tại các tổ chức tín dụng, bà Nguyễn Thị Thu Hà, Giám đốc Trường Đào tạo Cán bộ Agribank, Phó Trưởng ban chỉ đạo ESG, Ngân hàng Agribank cho biết, với vai trò chủ lực cung ứng vốn và dịch vụ tài chính cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, Agribank cam kết triển khai tiêu chí môi trường đồng bộ trong toàn bộ hoạt động của ngân hàng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh, quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng.
Cụ thể, dư nợ cho vay đối với các lĩnh vực xanh của Agribank có sự tăng trưởng ổn định qua từng năm, tỷ trọng tài trợ dự án xanh trong tổng dư nợ tín dụng của Agribank tăng từ 0,9% năm 2020 lên 1,8% năm 2023 và duy trì đến quý II/2024. Tính đến ngày 30/6/2024, dư nợ cho vay đối với lĩnh vực xanh tại Agribank đạt 27.816 tỷ đồng, với 42.485 khách hàng còn dư nợ. Trong đó, dư nợ lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng sạch đạt 15.330 tỷ đồng, chiếm 55% tổng dư nợ tín dụng xanh, tiếp đến là lĩnh vực lâm nghiệp bền vững đạt 6.805 tỷ đồng, chiếm 24,5% tổng dư nợ tín dụng xanh; thứ ba là lĩnh vực nông nghiệp xanh với dư nợ 5.540 tỷ đồng, chiếm 20% tổng dư nợ tín dụng xanh.
Xét về số lượng khách hàng vay vốn tại Agribank, lĩnh vực lâm nghiệp bền vững chiếm tỷ lệ cao nhất với 96% tổng số khách hàng (40.736 khách hàng). Tuy nhiên, các dự án cho vay với giá trị lớn chủ yếu lại thuộc lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng sạch.
Còn tại SHB, bà Nguyễn Thị Tuyết Hạnh, Giám đốc Ban quản lý dự án quốc tế, khẳng định, SHB cam kết phát triển bền vững không chỉ bằng khẩu hiệu mà qua từng hành động thực tế. Với tầm nhìn dài hạn, SHB cung cấp các giải pháp tài chính toàn diện, hỗ trợ khách hàng và cộng đồng đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, đồng thời quản lý hiệu quả các rủi ro về môi trường, xã hội.
“Với vai trò là kênh dẫn vốn cho nền kinh tế, SHB luôn hướng nguồn vốn tín dụng tới các ngành nghề, các doanh nghiệp, các dự án phát triển kinh tế xanh, bảo vệ môi trường. Hiện nay, tỷ trọng dư nợ cấp tín dụng cho lĩnh vực xanh của SHB chiếm gần 10% trên tổng dư nợ. Bên cạnh đó, SHB áp dụng các biện pháp quản trị doanh nghiệp minh bạch và có trách nhiệm theo các tiêu chuẩn, thông lệ tốt nhất, nhằm đảm bảo tính bền vững trong mọi hoạt động của ngân hàng”, bà Hạnh nói.
Trong khi đó, bà Nguyễn Thúy Hạnh, Tổng Giám đốc kiêm Giám đốc Khối Khách hàng doanh nghiệp và đầu tư, Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam chia sẻ cam kết: Standard Chartered sẽ mở rộng quy mô và phạm vi của chương trình tài chính bền vững, với kế hoạch huy động 300 tỷ USD tài chính bền vững vào cuối thập kỷ này. Ngân hàng Standard Chartered cũng đặt mục tiêu đạt mức thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và trong các hoạt động của ngân hàng vào năm 2025.
“Chúng tôi cung cấp các chương trình đào tạo ESG cho đội ngũ nhân viên và cam kết công khai ít nhất 70% nhân viên hoàn thành chương trình đào tạo tài chính bền vững. Đây chỉ là một số trong rất nhiều nỗ lực mà chúng tôi thực hiện với tư cách là một ngân hàng để khuyến khích quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế khí thải carbon thấp”, bà Hạnh thông tin.
Thúc đẩy hơn nữa thực hành ESG trong hệ thống ngân hàng
Bằng việc áp dụng các chính sách ưu tiên với doanh nghiệp thực hiện tốt các tiêu chuẩn ESG và hạn chế tín dụng cho những hoạt động gây tổn hại tới môi trường và xã hội, ngân hàng đóng vai trò mắt xích rất quan trọng trong chuỗi hành động về ESG.
Ông Lê Trọng Minh, Tổng Biên tập Báo Đầu tư đánh giá, hiện tại, rất nhiều quốc gia cũng như các tổ chức quốc tế đã đưa ra nhiều quy định và chính sách thúc đẩy thực hiện các tiêu chuẩn ESG, trong đó có hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, việc áp dụng ESG trong hoạt động của các tổ chức tín dụng Việt Nam vẫn đang ở những bước khởi đầu và còn gặp nhiều vướng mắc.
Để các cơ chế, chính sách của ngành Ngân hàng thực sự phát huy hiệu quả, bên cạnh những nỗ lực của ngành Ngân hàng trong việc thúc đẩy thực hành ESG, hướng dòng vốn tín dụng vào việc tài trợ các dự án thân thiện với môi trường, mở rộng và khơi thông nguồn vốn tín dụng cho các lĩnh vực xanh đòi hỏi sự phối, kết hợp từ nhiều bộ, ngành, các đơn vị liên quan, dó đó, bà Hà Thu Giang đưa ra 4 kiến nghị, đề xuất:
Thứ nhất, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về môi trường, xã hội của các dự án đầu tư theo hướng cập nhật, dễ dàng tiếp cận, làm cơ sở cho các TCTD có thể tra cứu thông tin để đánh giá về môi trường, xã hội.
Thứ hai, hỗ trợ đào tạo, nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp trong việc thực thi ESG, dần tiệm cận với các tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ ba, Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về tiêu chí môi trường đối với dự án đầu tư được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh làm cơ sở cho các TCTD căn cứ lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh.
Thứ tư, xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ các ngành xanh (thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, đến quy hoạch, chiến lược phát triển…) của từng ngành/lĩnh vực một cách đồng bộ, thúc đẩy thực hành ESG, đồng thời thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh.
Đại diện Agribank đề xuất, Chính phủ có thể nghiên cứu mô hình của Barbados là “Hoán đổi nợ lấy khí hậu”, làm thay đổi sự hợp tác công - tư trong triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu. Đây là một phương pháp tiếp cận sáng tạo nhằm khai thác tài chính tư nhân thông qua chuyển đổi nợ vì khí hậu. Cơ chế Chuyển đổi nợ vì khí hậu là Chính phủ cần đàm phán với các chủ nợ quốc tế điều chỉnh lại các điều khoản thanh toán, thời gian trả nợ và lãi suất để tài trợ cho các dự án khí hậu thay vì dùng trả cho các chủ nợ.
Bên cạnh đó, huy động tài chính tư nhân cho dự án khí hậu, đặc biệt trong lĩnh vực thích ứng và tăng cường khả năng chống chịu khí hậu như: cải thiện khung pháp lý và chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư tư nhân vào các dự án khí hậu, nhận hỗ trợ tài chính và kỹ thuật từ các tổ chức tài chính quốc tế, phát hành các công cụ tài chính xanh…