Phản ứng của các quốc gia trước tác động của đại dịch COVID-19 đến kinh tế toàn cầu

Trịnh Quốc Đạt| 23/09/2020 07:00
Theo dõi Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ trên

(thitruongtaichinhtiente.vn) - Kể từ khi dịch COVID-19 lần đầu tiên được phát hiện, virus corona đã lan rộng ra hơn 200 quốc gia, đại dịch đã tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu, vượt xa tất cả những biến cố tệ hại khác xảy ra trong thế kỷ qua. Trong khi các quốc gia châu Âu đã bắt đầu kiểm soát được dịch bệnh thì diễn biến tại một số quốc gia châu Mỹ và châu Phi lại trở nên phức tạp, các quốc gia châu Á đã vượt qua đỉnh dịch bệnh và đang bình thường hoá các hoạt động nền kinh tế.

Thực trạng đầy báo động

Theo số liệu thống kê, ước tính cho đến cuối quý II/2020, tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự kiến giảm từ 3%-6%, khi số lượng người thất nghiệp tăng cao kỷ lục so với cuộc đại khủng hoảng những năm 1930. Đối với những nền kinh tế đang phát triển và phụ thuộc phần lớn vào kinh tế thương mại, mức suy giảm thương mại dự kiến từ 13%-23%, gây nên tổn thất kinh tế đặc biệt nặng nề. Chính phủ các quốc gia đang nỗ lực cân bằng các chính sách giữa việc giải quyết khủng hoảng y tế công cộng và những vấn đề của nền kinh tế, dựa trên những vấn đề sau:

  • - Khả năng điều tiết ngân sách đang ngày một thâm hụt nặng nề trong bối cảnh chi tiêu chính phủ gia tăng cho việc hỗ trợ người thất nghiệp và an sinh xã hội ( trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp xã hội, chương trình việc làm công, nhà ở xã hội,…)

  • - Hỗ trợ tài chính cho hệ thống y tế quốc gia đang trong quá trình gấp rút phát triển vắc - xin, đồng thời đảm bảo khả năng ứng phó với dịch bệnh hiệu quả.

  • - Triển khai các chính sách tài chính tiền tệ nhằm hỗ trợ thị trường tín dụng và các hoạt động kinh tế bền vững, đặc biệt quan tâm đến các doanh nghiệp hoạt động khó khăn vì dịch COVID-19.

  • - Triển khai các chính sách tài khoá nhằm thúc đẩy các hoạt động cơ bản nền kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh người dân giảm chi tiêu, tăng tiết kiệm do phải đối mặt với những khó khăn về công việc, thu nhập và sức khoẻ.

  • Ngân hàng trung ương (NHTW) và các cơ quan liên quan cần có sự can thiệp cụ thể đối với các khoản nợ quốc gia và thị trường trái phiếu doanh nghiệp để điều tiết ổn định thị trường và đảm bảo tính thanh khoản.

Các nhà hoạch định chính sách và những thành phần tham gia thị trường hi vọng về sự hồi phục nền kinh tế toàn cầu từ quý III/ 2020, trong giả định rằng sẽ không có làn sóng tái bùng phát dịch. Nếu không có những giải pháp nhanh chóng cho vấn đề khủng hoảng y tế trong thời gian ngắn tới đây thì thời gian phục hồi nền kinh tế sẽ kéo dài và thiệt hại sẽ ngày càng gia tăng. Bên cạnh những chính sách tài chính tiền tệ được triển khai, nhà hoạch định chính sách cần bổ sung và kết hợp thêm một số phương án mới nhằm đảm bảo cân bằng lợi ích giữa các cá thể trong nền kinh tế. Việc thực hiện tái giãn cách xã hội sau những làn sóng dịch bùng lên khiến quá trình phục hồi nền kinh tế đang chậm đi hơn bao giờ hết.

Hơn nữa, việc các quốc gia có những cách thức phản ứng khác nhau khi ứng phó với dịch bệnh vô hình chung đã tạo nên những ý kiến trái chiều, những chính sách không thống nhất khi được ban hành đang đe doạ gây thiệt hại cho nền kinh tế toàn cầu vì gây nên căng thẳng trong các mối quan hệ chính trị, thương mại và kinh tế quốc tế, đặc biệt là những quốc gia hiện coi trọng chủ nghĩa dân tộc và các quốc gia hiện có nhiều tranh luận về phản ứng quốc tế đối với đại dịch, điển hình là mối quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc đang ngày càng căng thẳng. Sự khác biệt về chính sách cũng đang làm căng thẳng mối quan hệ  giữa các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, giữa các quốc gia thành viên phía Bắc và phía Nam khu vực Eurozone, đặt ra nhiều thách thức cho những quốc gia lãnh đạo thế giới hiện nay.

Ở một số quốc gia, đại dịch khiến sức khoẻ cộng động trở thành vấn đề quan trọng ngang an ninh quốc gia, ưu tiên hàng đầu của chính phủ. Thiệt hại kinh tế và con người từ đại dịch sẽ để lại hậu quả lâu dài cho các nền kinh tế thông qua khủng hoảng và mất cân bằng an sinh xã hội. Đánh giá trên nhiều phương diện khác nhau, biện pháp kích thích tài chính tiền tệ vô hình chung sẽ gia tăng khoảng cách về thu nhập, địa vị xã hội. Nói về vấn đề này, ông Powell, Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ (FED) cho biết:

“Kể từ khi đại dịch bùng phát tại Mỹ, hơn 20 triệu người Mỹ đã mất việc làm tính đến tháng 4/2020, mức suy giảm kỷ lục, cao hơn cả số người thất nghiệp từ khủng hoảng kinh tế những năm 1930, sự suy thoái mạnh này dẫn đến những “tổn thương” sâu sắc cho nền kinh tế, đến nay, những con số thống kê cho thấy những tổn thất chưa có dấu hiệu dừng lại, tương lai thế giới chưa thể định hình khi chưa có vắc-xin chữa trị COVID-19 triệt để.”

Về quá trình lan truyền của chủng virus corona, loại virus này xuất hiện lần đầu tại Vũ Hán, Trung Quốc cuối năm 2019, chỉ sau 8 tháng, hiện đã xuất hiện tại hơn 200 quốc gia. Đầu tháng 3/2020, tâm điểm dịch bệnh bắt đầu bùng phát tại châu Âu, đặc biệt là Ý, đến tháng 4/2020, đã bùng phát tại Hoa Kỳ và Mỹ trở thành một trong những “ổ dịch” lớn nhất thế giới.

Theo con số thống kê tính từ ngày 15/3 đến 18/7/2020, 52,7 triệu người Mỹ đã điền vào đơn xin trợ cấp thất nghiệp, dựa trên bảng thống kê số lượng người yêu cầu bảo hiểm thất nghiệp dưới đây, số lượng người thất nghiệp có bảo hiểm là 16,2 triệu người ở thời điểm trung tuần tháng 7, giảm 35,2% so với con số đỉnh 25 triệu người ở thời điểm trung tuần tháng 5. Tổng số lượng người đăng ký các chương trình cứu trợ tính đến ngày 4/7/2020 là 31,8 triệu người, tăng 1,7 triệu người so với cùng thời đểm năm 2019. Theo Cục Thống kê Lao động, tổng số lượng người thất nghiệp tính đến cuối tháng 4/2020 là 23 triệu người so với tổng số 158 triệu nhân lực, đẩy tỷ lệ thất nghiệp tăng tới 14,7%, con số cao nhất kể từ Cuộc Đại khủng hoảng những năm 1930.

Dữ liệu sơ bộ cho thấy GDP Hoa Kỳ đã giảm 5% trong quý đầu tiên năm 2020, mức giảm theo quý lớn nhất kể từ quý IV/2008, thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra. Ở khu vực châu Âu, Chính phủ đã dần nới lỏng các chính sách, dần mở cửa nền kinh tế, đưa hoạt động kinh tế trở lại bình thường. Số liệu thống kê cho thấy, hơn 30 triệu người các quốc gia Đức, Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Ý đã đăng ký nhận trợ cấp Chính phủ và trong quý I/2020, GDP tính trung bình các quốc gia EU đã giảm 3,8% so với cùng kỳ năm ngoái, mức giảm lớn nhất kể từ năm 1995. Sản xuất công nghiệp khu vực Eurozone giảm 17% tính đến tháng 4/2020. Theo Ủy ban châu Âu, dự kiến tăng trưởng kinh tế các quốc gia EU sẽ giảm còn khoảng 8,3% và chỉ có thể phục hồi một phần trong năm 2021. Sau khi thống nhất vào ngày 21/7/2020, các nhà lãnh đạo châu Âu đã thông qua gói cứu trợ trị giá 750 tỷ Euro (tương đương 859 tỷ USD) để hỗ trợ các quốc gia khối EU.

Ngày 27/5/2020, Chủ tịch ngân hàng Trung ương châu Âu, ông Christine Lagarde cảnh báo rằng, kinh tế EU dự kiến sẽ giảm còn 8%-12% trong năm 2020, mức độ thiệt hại theo như mô tả của ông thì sẽ rất khó để có thể phục hồi nhanh chóng trong thời gian tới ngay cả khi dịch bệnh được kiểm soát. Các nhà đầu tư nước ngoài đang tháo chạy khỏi thị trường các quốc gia đang phát triển ở châu Á với số vốn khổng lồ hơn 26 tỷ USD, chưa bao gồm 16 tỷ USD tại thị trường Ấn Độ, dấy lên sự lo ngại về sự suy thoái kinh tế tại châu Á.

Tại các khu vực khác, ước tính khoảng 29 triệu người tại khu vực châu Mỹ Latin rơi vào cảnh thất nghiệp, khiến cho nỗ lực cân bằng an sinh xã hội trong suốt thập kỷ qua trở nên vô nghĩa. Đối với châu Phi, các nhà phân tích lo ngại rằng châu Phi, sau khi dịch bệnh chỉ bùng phát đầu tiên tại những những quốc gia lớn như Nam Phi, Ai Cập, Nigeria, Algeria và Ghana thì nay đã lan truyền ra toàn bộ khu vực các quốc gia châu Phi.

Theo số liệu thống kê tính đến ngày 14/7/2020, thế giới ghi nhận hơn 13,2 triệu ca COVID-19, gần 575.000 người tử vong. Nước Mỹ là tâm dịch lớn nhất thế giới với hơn 3,4 triệu ca mắc; hơn 138.000 người tử vong. Tiếp đó là các nước Brazil, Ấn Độ, Nga, Peru. WHO cảnh báo tình hình có thể tồi tệ hơn. Đứng trước tình trạng “báo động đỏ” như hiện nay, các quốc gia phản ứng ra sao? Các chính sách gì được thực thi để đảm bảo sự ổn định cho thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung cũng như những biện pháp đảm bảo sự an toàn cho sức khoẻ cộng đồng?

Chính sách kinh tế ứng phó với đại dịch

Trước những diễn biến phức tạp của dịch bệnh, các quốc gia phát triển và mới nổi đã áp dụng một loạt các chính sách tài khoá và tiền tệ để thúc đẩy nền kinh tế, các quốc gia khác nhau sẽ có những quy mô thực thi khác nhau, nhưng tựu chung đều bao gồm việc cắt giảm thuế, hoãn thuế, hỗ trợ thu nhập,… Bảng dưới đây phản ánh các chính sách mà các quốc gia đang thực thi nhằm ứng phó với đại dịch.

 

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ước tính rằng chi tiêu chính phủ cho việc duy trì hoạt động nền kinh tế tính toán đến thời điểm trung tuần tháng 5/2020 là 5,4 nghìn tỷ USD, cộng thêm với các khoản nợ cũng như việc bơm vốn cho nền kinh tế khiến cho con số này tăng lên thành 11 nghìn tỷ USD. IMF cập nhật con số nợ vay quốc gia trên toàn cầu tăng từ 3,9% (% tỷ trọng trong GDP) năm 2019 lên đến 13,9% năm 2020, theo số liệu thống kê tại Bảng dự kiến số dư tài khoá Chính phủ liên quan đến GDP ( tính theo tỷ lệ phần trăm của GDP)

 

IMF cũng nhận định rằng sự mất kết nối ngày càng tăng giữa việc định giá rủi ro trên thị trường tài chính và triển vọng kinh tế nguyên nhân do các nhà đầu tư mong đợi nhiều vào sự phục hồi nhanh chóng dựa trên sự can thiệp của NHTW. Tuy nhiên, sự can thiệp của NHTW vào thị trường chưa hẳn sẽ đưa thị trường phục hồi ngay mà chỉ có thể ổn định lại sự bất ổn trên thị trường, dẫn đến những kỳ vọng sai lệch từ phía nhà đầu tư, ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường nợ, thị trường vốn và sự phục hồi kinh tế.

Bên cạnh đó, những “lỗ hổng” xuất hiện từ trước năm 2020 cũng là nhân tố làm chậm lại quá trình hồi phục nền kinh tế, cụ thể là mức nợ cao của doanh nghiệp và hộ gia đình sẽ trở nên khó kiểm soát trong bối cảnh suy thoái tăng cao. Những yếu tố trên sẽ tác động đến cả lĩnh vực phi ngân hàng như một hệ quả tất yếu, từ đó nảy sinh nguy cơ thiếu hụt nguồn lực tài chính nghiêm trọng.

Trong số NHTW các quốc gia, FED đã thực hiện những bước đi mà chưa có tiền lệ từ cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2008 - 2009 để đối phó với ảnh hưởng của dịch COVID-19 đến nền kinh tế. Theo dữ liệu thu thập trong bảng thống kê phương án được sử dụng để ứng phó với dịch COVID-19 của một số quốc gia được chọn dưới đây, một số phương thức nổi bật được áp dụng đó là cắt giảm lãi suất, tăng dự trữ bắt buộc, đưa ra cơ chế cho vay và tài trợ vốn mới, các biện pháp phòng vệ rủi ro giao dịch ngoại hối, nới lỏng “bộ đệm vốn” (mức vốn tối thiểu đảm bảo khả năng tài chính cho doanh nghiệp). Những biện pháp đó đã góp phần hỗ trợ NHTW và cơ quan tiền tệ quản lý tốt cuộc khủng hoảng thanh khoản ban đầu, giai đoạn đầu tiên trong ba giai đoạn thường được xác định là có khủng hoảng tài chính, trong đó giai đoạn hai là mất khả năng thanh toán và giai đoạn ba là phục hồi. Các giai đoạn sau vẫn đang trong quá trình định hướng, có thể trở nên khó khăn hơn nếu cuộc khủng hoảng kinh tế liên quan đến đại dịch tiếp tục kéo dài. “Bộ đệm vốn” đã được kích hoạt để hỗ trợ các ngân hàng hấp thụ thua lỗ và duy trì hoạt động trong cơn suy thoái. Đối với một số trường hợp tồi tệ hơn, chính phủ đã chỉ đạo các ngân hàng ngừng thanh toán cổ tức và trả thưởng.

Kể từ ngày 11/3/2020 khi WHO chính thức công bố dịch COVID-19 là đại dịch, mức cao nhất trong cảnh báo các mức độ y tế, khủng hoảng kinh tế kết hợp với y tế sẽ “đánh sập” các quốc gia đang phát triển, nơi mà đang trong tình trạng nguồn lực ở mức giới hạn, hệ thống y tế có thể quá tải bất cứ lúc nào nếu dịch bệnh rơi vào trạng thái mất kiểm soát.

 

­­­­­

Để nhanh chóng đưa ra những biện pháp ứng phó với đại dịch toàn cầu, Bộ trưởng tài chính nhóm các nước G7 và các NHTW thế giới đã khẳng định họ sẽ sử dụng tất cả những công cụ phù hợp nhất để triển khai nhằm đối phó với COVID-19. Hầu hết các NHTW hạ lãi suất và tăng thanh khoản trong hệ thống tài chính thông qua những biện pháp kết hợp như giảm dự trữ bắt buộc, nới lỏng điều kiện cho vay tín dụng, đơn giản hoá điều khoản cho vay. Ngoài ra chính phủ một số quốc gia dưới đây đã áp dụng những biện pháp tài khoá khác nhau để duy trì hoạt động kinh tế bao gồm kéo dài thời hạn thu thuế, mở rộng bảo hiểm thất nghiệp và tăng bảo lãnh cho vay đối với các doanh nghiệp,…

Mỹ

FED đã triển khai các chính sách để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định thị trường tài chính thông qua chính sách tiền tệ với vai trò là “người cho vay cuối cùng”. Cụ thể, lãi suất đã được điều chỉnh từ 1% - 1,25% xuống biên độ 0% - 0,25% vào ngày 18/3/2020. Đến ngày 31/3/2020, chính quyền Trump đã thông báo về việc tạm ngưng thuế nhập khẩu các mặt hàng may mặc và xe tại hạng từ Trung Quốc, ngọai trừ hàng hóa tiêu dùng và kim loại.

Đối với chính sách tiền tệ, FED triển khai “Định hướng chính sách”(Forward Guidance), can thiệp đến các quyết định tài chính của hộ gia đình, doanh nghiệp và nhà đầu tư bằng cách cung cấp một hướng dẫn về đường lãi suất dự kiến ​​(đến mức mà NHTW có thể tác động đến các tỷ lệ đó). Các thông điệp rõ ràng của NHTW cho công chúng là một công cụ để ngăn chặn những bất ngờ có thể phá vỡ thị trường và gây ra sự biến động đáng kể về giá tài sản.

Để tăng tính thanh khoản cho thị trường, FED có thể tạm thời cung cấp thanh khoản cho thị trường tài chính bằng cách cho vay tiền mặt thông qua các thỏa thuận mua lại (repos) với các đại lý chính (tức là, các đại lý chứng khoán chính phủ lớn, là nhà tạo lập thị trường). Vào ngày 12/3/2020, FED tuyên bố sẽ cung cấp khoản repos ba tháng trị giá 500 tỷ đô la và repo một tháng 500 tỷ đô la trên cơ sở hàng tuần cho đến cuối tháng, ngoài các repos ngắn hạn mà nó đã được cung cấp. Những repos này sẽ lớn hơn và dài hơn những repos được cung cấp kể từ tháng 9.

Bên cạnh đó, FED cũng sẽ áp dụng “Hạn mức tín dụng chéo”(Swap Lines) bởi các ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế đều dựa vào thị trường vay ngắn hạn để tiếp cận đô la Mỹ nhằm tài trợ cho hoạt động của họ. Nhưng trong giai đoạn thanh khoản kém hiện nay, FED đã đứng ra trao đổi với các NHTW nước ngoài lớn để cung cấp USD cho các NHTW tài trợ bằng đô la Mỹ mà họ có thể lần lượt cho các ngân hàng tư nhân vay trong phạm vi quyền hạn của mình.

Đối với chính sách tài khoá, các văn bản đã đã ban hành nhằm hướng dẫn những người ảnh hưởng bởi COVID-19 tiếp cận các gói hỗ trợ của chính phủ, chi trả bảo hiểm, xét nghiệm COVID-19 miễn phí, đảm bảo mức hỗ trợ tốt nhất cho người dân, hạn chế nhập cảnh đối với quốc gia có diễn biến dịch bệnh không ổn định. Ngoài ra, Chính phủ sẽ cung cấp các khoản thanh toán trực tiếp cho người nộp thuế, các khoản vay và bảo lãnh cho các hãng hàng không và các ngành công nghiệp khác, và hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ.

Các quốc gia EU

Mỗi quốc gia khác nhau sẽ có cách thức phản ứng khác nhau, đặc biệt là các quốc gia khu vực châu Âu, không giống như trước đây trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 khi các chính sách đồng bộ được triển khai. Nhưng điều đó đã thay đổi khi áp dụng gói phục hồi kinh tế đại dịch vào tháng 7 năm 2020. Phần lớn các quốc gia thành viên EU đã sử dụng kết hợp các chính sách tài khóa quốc gia và mua trái phiếu của NHTW châu Âu (ECB) để giải quyết tác động kinh tế của đại dịch. Các quốc gia riêng lẻ đã áp dụng kiểm dịch và yêu cầu đóng cửa kinh doanh, hạn chế đi lại và biên giới, thuế cho các doanh nghiệp, gia hạn một số khoản thanh toán và bảo lãnh cho vay và trợ cấp cho công nhân và doanh nghiệp. Ủy ban Châu Âu đã ủng hộ sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa các thành viên EU trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách tài chính và tiền tệ để giải quyết vấn đề kinh tế từ đại dịch virus corona. Nhiều quan chức EU và ECB dường như đã đàm phán các kế hoạch tài chính phối hợp giữa các quốc gia khu vực Eurozone thống nhất hơn

Ngày 12/3/2020, ECB đã quyết định (1) mở rộng hoạt động tái cấp vốn dài hạn (LTRO) để cung cấp các khoản vay chi phí thấp cho các ngân hàng Eurozone để tăng thanh khoản ngân hàng; (2) mở rộng các hoạt động tái cấp vốn dài hạn được nhắm mục tiêu (TLTRO) để cung cấp các khoản vay với lãi suất thấp hơn thị trường cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bị ảnh hưởng trực tiếp bởi COVID-19; (3) cung cấp thêm 120 tỷ euro (khoảng 130 tỷ USD) cho chương trình mua tài sản của ngân hàng để cung cấp thanh khoản cho các công ty ngoài 20 tỷ EUR mỗi tháng mà họ đã cam kết mua trước đó.

Ngày 18/3/2020, ECB dành ra 750 tỷ EUR (tương đương 800 tỷ USD) để khởi động chương trình trao đổi khẩn cấp nhằm mua lại chứng khoán nhà nước và tư nhân, mở rộng thêm các loại chứng khoán phi tài chính và một số tài sản đảm bảo khác. Trong quá trình xây dựng chương trình, ECB đã nới lỏng đáng kể các điều kiện áp dụng trong các chương trình trước đó, bao gồm những giới hạn mua trái phiếu đủ điều kiện, động thái này được cho là sẽ có lợi cho Ý, quốc gia hiện đang chịu nhiều tổn thất từ dịch COVID-19 nhất.

Trung Quốc

Theo số liệu thống kê, tăng trưởng nền kinh tế Trung Quốc sẽ đối mặt với mức tăng trưởng âm trong quý đầu tiên năm 2020, giảm dưới 5% và có thể diễn biến xấu hơn nếu không thể kiểm soát tốt dịch bệnh. NHTW Trung Quốc đã bơm 57 tỷ USD vào hệ thống ngân hàng, hạn chế tăng lãi suất cho vay đối với những công ty lớn và kéo dài thời gian trả lãi cho các doanh nghiệp. NHTW đã thiết lập tỷ lệ tham chiếu cho tiền tệ Trung Quốc mạnh hơn tỷ giá đóng cửa chính thức để giữ ổn định.

Ngày 13/3/2020, Ngân hàng Quốc dân Trung Hoa đã cung ứng 78,8 tỷ USD hỗ trợ phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua việc giảm dự trữ bắt buộc tại các ngân hàng thương mại. 

Thách thức cần vượt qua

Điều thách thức các nhà hoạch định chính sách đó là làm thế nào để triển khai các chính sách để đối phó với vấn đề ngắn hạn nhưng không gây nên những hệ luỵ xấu cho nền kinh tế trong dài hạn khi cuộc chiến với dịch bệnh chưa đi đến hồi kết. Ở một khía cạnh khác năm 2019, nền kinh tế thế giới đã có những dấu hiệu về tốc độ tăng trưởng chậm lại, thậm chí là xuất hiện nguy cơ khủng hoảng, thì dịch bệnh xảy ra đã đẩy nhanh tốc độ suy thoái nền kinh tế thế giới, chính điều này khiến cho các nhà hoạch định chính sách vội vã điều chỉnh chính sách tập trung xử lý các vấn đề ngắn hạn mà chưa thực sự nhìn nhận rằng đây là cuộc chiến kéo dài chưa thể hoàn toàn kiểm soát trong ngắn hạn.

Khả năng kiểm soát dịch bệnh

Trong giai đoạn đầu cuộc khủng hoảng, nhiều nhà hoạch định thấy nhiều hạn chế đối với khả năng ứng phó linh hoạt với dịch bệnh vì một bên cần phải đáp ứng những tiêu chuẩn về an toàn giảm thiểu rủi ro, một bên phải cung ứng nguồn lực tài chính tiền tệ lớn để hỗ trợ các cá thể bị “tổn thương” trong nền kinh tế, điều mà đáng lẽ phải chuẩn bị tốt từ trước khi dịch bệnh bùng phát thành đại dịch toàn cầu. Bên cạnh đó, đại dịch COVID-19 còn ảnh hưởng tồi tệ đến chính trị thế giới khi các nhà lãnh đạo hàng đầu thế giới buộc phải huỷ các cuộc họp quan trọng, việc không thể gặp mặt trực tiếp để giải quyết vấn đề triệt để vô hình chung đã gây nên những tranh luận trái chiều về trách nhiệm các bên khi không thể kiểm soát dịch bệnh, vị trí lãnh đạo thế giới sẽ thay đổi khi các quốc gia hiện đang chạy đua để tìm ra phương án kiểm soát dịch bệnh tốt nhất.

Khả năng phục hồi thương mại kinh tế

Trong giai đoạn đầu phòng chống dịch, các nhà phân tích kinh tế cho rằng tác động của virus corona lên nền kinh tế chỉ là ngắn hạn, nguồn cung trong ngắn hạn giảm vì công nhân ngừng làm việc do cách ly xã hội. Sự sụt giảm trong hoạt động kinh tế, bắt đầu từ Trung Quốc, đã tác động đến chuỗi cung ứng toàn cầu, các công ty cung cấp hàng hoá trung gian và thành phẩm không thể giao hàng đúng hạn. Đây là tiền đề gây nên cú sốc cung - cầu kèo dài bởi sự thay đổi trong hành vi người tiêu dùng và việc cắt giảm của doanh nghiệp dẫn đến tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, và đã tăng trưởng âm đối với một số quốc gia chịu thiệt hại nặng nề. Cho dù nhận được hỗ trợ tài chính, tín dụng từ phía chính phủ, các doanh nghiệp vẫn đang gặp phải rất nhiều khó khăn khi hành vi, thói quen người tiêu dùng đã thay đổi, sự bất ổn xã hội khi các làn sóng dịch tiếp tục xuất hiện khiến lợi nhuận giảm sâu và áp lực thanh khoản ngày càng gia tăng.

Chính vì sự sụt giảm trong các hoạt động kinh tế bình thường mà xu hướng hiện nay mọi người tăng tích trữ tiền mặt và vàng, ảnh hưởng xấu đến thanh khoản thị trường khi dòng tiền bị ứ đọng. Việc các ngân hàng hạ lãi suất cho vay cũng chỉ là biện pháp ngắn hạn để cung cấp thanh khoản cho thị trường tài chính cũng như kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh trong ngắn hạn.

Áp lực nợ công tăng cao

Đại dịch kéo dài sẽ kéo theo nhiều hệ luỵ đối với nền kinh tế khi các yếu tố thương mại, tài chính, ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, khiến thiệt hại xảy ra có thể ước tính theo cấp số nhân. Một số quốc gia buộc phải phát hành thêm trái phiếu chính phủ như khu vực EU, Mỹ, Trung Quốc,… nhằm huy động thêm nguồn lực đấu tranh với khủng hoảng kép đại dịch và kinh tế. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) mới đây đã đưa ra cảnh báo về nợ công của các nước phát triển trong cuộc chiến chống lại ảnh hưởng của dịch Covid-19 lên nền kinh tế mỗi quốc gia. Nguồn thu từ thuế giảm mạnh, chi cho công tác y tế và ngăn chặn dịch bệnh khiến các nước này có thể gánh thêm 17 nghìn tỷ USD nợ công, đẩy tỷ lệ nợ trung bình của chính phủ tăng từ 109% trên GDP lên hơn 137%.

Có thể nói, diễn biến phức tạp của đại dịch virus corona đẩy thế giới tới tình trạng hỗn loạn, những vấn đề phát sinh mà chưa thể xác định thiệt hại cụ thể, vậy nên để có thể giải quyết triệt để những vấn đề còn tồn đọng cũng như phương án kiểm soát dịch bệnh thì cần phải xác định được những vấn đề sau để từ đó có thể lên kế hoạch tốt hơn ứng phó với những diễn biến xấu đối với nền kinh tế toàn cầu,

Dịch bệnh sẽ còn kéo dài tới bao lâu?

Bao giờ khủng hoảng đạt đỉnh?

Nền kinh tế sẽ chống chịu như thế nào trong ngắn hạn và dài hạn?

Nguồn bài viết: https://fas.org/sgp/crs/row/R46270.pdf

[1] Bao gồm mua bán các hợp đồng repos, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc

[2] Bao gồm chứng khoán bảo đảm bằng tài sản và thế chấp, trái phiếu được bảo hiểm và các quỹ giao dịch trao đổi.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Phản ứng của các quốc gia trước tác động của đại dịch COVID-19 đến kinh tế toàn cầu
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO