Các tập đoàn y, dược quốc tế rất muốn làm đối tác chiến lược của các doanh nghiệp Việt Nam khi làm việc với 11-13 doanh nghiệp, trong đó có 3-4 doanh nghiệp niêm yết nhưng vẫn gặp một số hạn chế như quy định thoái vốn, quy trình quản trị doanh nghiệp.
Tại Hội thảo "Triển khai Nghị quyết 29: Tiếp cận mới trong phát triển ngành y dược", do Báo Đầu tư tổ chức sáng nay (20/7), ông Đỗ Văn Sử, Phó Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, Việt Nam coi lĩnh vực dược phẩm và chăm sóc sức khỏe là lĩnh vực khuyến khích đầu tư, thậm chí xem là lĩnh vực xã hội hóa được dành hỗ trợ ở mức cao nhất. Tuy nhiên, vốn FDI vào dược phẩm và y tế còn rất khiêm tốn.
“Nếu tính theo phân ngành, mảng dược phẩm, y tế chỉ có 5,5 tỷ USD vào 341 dự án, tương đương 1,3% tổng lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Sự quan tâm của doanh ngiệp nước ngoài chưa đúng với nhu cầu thực tế vô cùng lớn trong mảng chăm sóc sực khỏe, dược phẩm của thị trường hơn 100 triệu dân”, ông Đỗ Văn Sử nói.
Cũng theo ông Sử, với mảng y tế, dược phẩm, Việt Nam chỉ như “cậu bé mới chập chững biết đi”, sự thay đổi của ngành sản xuất dược phẩm chậm hơn so với nhiều ngành và phải bước đi từ từ.
“Trước đây 100% doanh nghiệp dược, y tế do nhà nước quản lý, chi phối, sau đó cổ phần hoá một phần và có sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp cổ phần hoá với con người cũ, dây chuyền cũ cần thời gian, không thể nhanh được. Các doanh nghiệp tư nhân ở lĩnh vực này đòi hỏi sự uy tín, niềm tin của khách hàng nhưng doanh nghiệp mới gặp rào cản nguồn lực vốn, nghiên cứu phát triển tiềm lực không đủ lớn, 1.000 nghiên cứu may ra 1 nghiên cứu thành công, trong đó chỉ có 30% là thương mại hoá thành công. Dẫn tới thị trường trong nước chưa đủ mạnh, nhà đầu tư nước ngoài vào không thể làm tất cả mọi thứ, họ cần hệ sinh thái trong nước cùng phát triển, đây là điều cản trở”, ông Sử lý giải.
Ông Sử dẫn chứng, mới đây có khoảng 11-13 doanh nghiệp làm việc với các tập đoàn y, dược quốc tế, trong đó có 3-4 doanh nghiệp niêm yết, doanh nghiệp nước ngoài rất muốn tham gia làm đối tác chiến lược nhưng lại gặp một số hạn chế.
Cụ thể, với doanh nghiệp có vốn nhà nước, quy trình thoái vốn đòi hỏi khó khăn hơn, ảnh hưởng bởi quy định thoái vốn, xác định giá trị. Đối với doanh nghiệp tư nhân lo ngại về quy trình quản trị doanh nghiệp, họ lo ngại văn hoá Á Đông, với nguyên tắc quản trị gia đình và là điều tối kỵ đối với các doanh nghiệp này.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp nước ngoài lo ngại về năng lực tiếp cận, triển khai các nghiên cứu phát triển cần đội ngũ năng lực đủ chiều sâu và bề dày. Hệ thống máy móc công nghệ đòi hỏi việc đào tạo nhân sự vận hành cũng là cản trở...
Đề xuất giải pháp hút vốn FDI vào mảng y, dược
Ông Emin Turan, Chủ tịch Pharma Group cho biết trên phạm vi toàn cầu, hoạt động đầu tư vào dược phẩm rất lớn, với tổng đầu tư R&D vào khoảng 1.000 tỷ USD. Để có thể nghiên cứu và đưa ra thị trường những loại thuốc mới, sản phẩm sáng tạo, mỗi công ty dược mất trung bình 15% doanh thu cho hoạt động R&D. “Đây là lý do các doanh nghiệp dược rất cẩn trọng trong việc đầu tư ra nước ngoài và thực hiện việc chuyển giao công nghệ”, ông Emin Turan nói.
Với Việt Nam, so với các nước trong khu vực, Chủ tịch Pharma Group đánh giá lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong mảng thu hút FDI vào ngành dược phẩm, y tế nằm ở 3 điểm chính. Thứ nhất, sự ổn định về chính trị và hạ tầng xã hội. Thứ hai, điểm sáng trong khu vực về phát triển kinh tế, thị trường nội địa tiềm năng và đang phát triển. Thứ ba là sự chủ động hội nhập sâu và rộng, thể hiện qua việc tham gia trên 15 hiệp định thương mại trong đó có những hiệp định thương mại thế hệ mới như EVFTA, UKVFTA, CPTPP,…
Gần đây, Việt Nam cũng đặt công nghiệp sinh học (tập trung vào gen, dược phẩm và các chế phẩm sinh học) thành một trong những ngành mũi nhọn để thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Với lợi thế của ngành dược phẩm phát minh và hơn 25 năm kinh nghiệm hợp tác trong lĩnh vực y tế ở Việt Nam, đại diện Pharma Group đề xuất chương trình thực hiện Nghị quyết cần tập trung cải cách thể chế, xây dựng mục tiêu cụ thể là rút ngắn thời gian tiếp cận thuốc mới của người dân, cũng như đưa ra cơ chế tài chính y tế linh hoạt, đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên.
Đồng thời, việc phát triển ngành dược phẩm, y tế phải dựa trên nền tảng khoa học, với lộ trình kiến tạo một hệ sinh thái phát triển lành mạnh dựa trên cạnh tranh, đổi mới sáng tạo, hội nhập sâu và rộng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dược Việt Nam trong khu vực và thế giới.
Trước mắt, ông Emin Turan đề xuất thành lập một ban chỉ đạo quốc gia do Phó Thủ tướng phụ trách đứng đầu nhằm xây dựng các kế hoạch hành động, triển khai các định hướng tại Nghị quyết 29 trong lĩnh vực y dược. Ban chỉ đạo này cần có sự tham gia của đại diện tất cả các bên và sẽ xây dựng lộ trình sửa đổi, xây dựng các chính sách nhằm thực hiện các mục tiêu cụ thể của từng giai đoạn.
Ông Luke Treloar, thành viên điều hành, Trưởng khối tư vấn chiến lược, Trưởng Khối tư vấn Ngành Y tế và Khoa học đời sống, KPMG Việt Nam cho biết, ba lĩnh vực chính mà Việt Nam nên tập trung nghiên cứu để khai thác.
Thứ nhất, nội địa hóa sản xuất khoa học đời sống, thứ hai là chuyển đổi số trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và thứ ba là tăng cường các hoạt động R&D tại Việt Nam và nên bắt đầu từ các thử nghiệm lâm sàng.
Việt Nam có rất nhiều cơ hội để nội địa hóa các thử nghiệm lâm sàng, bắt đầu từ giai đoạn ba, sau đó chuyển lên chuỗi giá trị sang giai đoạn hai và giai đoạn một, thậm chí là hóa học lâm sàng cho những gì Việt Nam có thể làm, tập trung vào đổi mới, tập trung vào sở hữu trí tuệ và chú trọng thu hút các doanh nghiệp dược phẩm toàn cầu đến Việt Nam.
“Ngành dược phẩm toàn cầu đã chi 1.000 tỷ USD cho hoạt động R&D trên toàn cầu và hiện tại chỉ một phần nhỏ trong số đó đang được tiến hành ở Việt Nam. Nếu hoạt động này được đẩy mạnh, nó sẽ mang lại những lợi ích lâu dài cho nền kinh tế Việt Nam”, ông Luke Treloar nói.